Điều trị đích và cá thể hóa điều trị trong ung thư phổi

Ngày đăng: 20/09/2019 Lượt xem 2420

CN. Vũ Bình Thư (tổng hợp và dịch)

ĐV Gen – Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai

Ung thư phổi nguyên phát vẫn là bệnh ác tính phổ biến nhất sau ung thư da không hắc tố. Con số tử vong do ung thư phổi vượt quá bất kỳ căn bệnh ác tính nào khác trên toàn thế giới. Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) chiếm 80% - 90% ung thư phổi trong khi ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) đã giảm tần suất ở nhiều quốc gia trong hai thập kỷ qua.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng ung thư phổi là nguyên nhân gây ra 1,59 triệu ca tử vong trên toàn cầu mỗi năm, với 71% trong số đó là do hút thuốc. Hút thuốc lá vẫn là nguyên nhân chính gây bệnh ung thư phổi.

Các dấu ấn sinh học trong Ung thư phổi không tế bào nhỏ

Trong khoảng 10% bệnh nhân mắc NSCLC, các thụ thể cho yếu tố tăng trưởng biểu bì nhạy cảm quá mức với các kích thích bên ngoài và khiến tế bào tăng trưởng vượt kiểm soát. Những người mang bất thường này về gen có khả năng đáp ứng tốt với thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI) của EGFR. Thuốc giúp ngăn chặn việc truyền tín hiệu tăng trưởng từ thụ thể được kích hoạt đến nhân tế bào. Ví dụ như gefitinib, erlotinib và afatinib, sau này là osimetinib.

Khoảng 90% các đột biến phổ biến nhất trên gen EGFR bao gồm xóa đoạn trên exon 19 và đột biến thay thế L858R trên exon 21 là những đột biến gen nhạy cảm với thuốc TKI thế hệ thứ nhất và thứ hai. Đột biến thay thế T790M trên exon 20 chỉ hiếm khi được tìm thấy trên bệnh nhân chưa điều trị TKI nhưng lại là nguyên nhân thường gặp nhất trên bệnh nhân kháng với thuốc điều trị TKI thế hệ thứ nhất và thứ hai (50% 60% trường hợp). Bệnh nhân ung thư phổi không có đột biến gen EGFR nhạy cảm thuốc không có khả năng đáp ứng với các thuốc TKI.

Khoảng 5% bệnh nhân mắc NSCLC có khối u mang gen ALK bất thường dẫn đến việc sản xuất enzyme hoạt động quá mức làm thúc đẩy tăng trưởng tế bào. Bệnh nhân mang dương tính với đọt biến gen ALK đáp ứng tốt với điều trị bằng crizotinib.

Các đột biến EGFR, ALK, ROS1 và BRAF V600E phổ biến nhất ở bệnh nhân ung thư biểu mô phổi không tế bào nhỏ. Mặc dù các loại ung thư phổi khác đôi khi có thể có những đột biến này, xét nghiệm gen khối u thường không được thực hiện đối với ung thư phổi tế bào vảy hoặc tế bào nhỏ. Như vậy, không phải bệnh nhân nào mắc ung thư phổi có mang đột biến gen cũng có thể được điều trị bằng các liệu pháp nhắm trúng đích

3449 anh 1

Điều trị đa mô thức

Ung thư kích thước nhỏ, giới hạn ở phổi có thể được điều trị bằng phẫu thuật, thường là xạ trị bổ sung. Bệnh tiến triển tại chỗ hoặc đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể có thể cần điều trị toàn thân. Thông thường, điều này dựa trên các loại thuốc hóa trị có chứa bạch kim như cisplatin hoặc carboplatin.

Hóa trị có thể được kết hợp với thuốc kháng thể đơn dòng bevacizumab- nhắm vào yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF). Như tên gọi của nó, yếu tố này thúc đẩy sự phát triển của các mạch máu, bao gồm cả những mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u. Cắt đứt các mạch máu dinh dưỡng này có thể giúp thu nhỏ và kìm hãm sự phát triển của khối u.

Do ung thư phổi có liên quan mật thiết đến hút thuốc, có nhiều ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, bệnh nhân thường có liên quan đến bệnh hô hấp, tim và mạch máu. Những yếu tố này có thể khiến hóa trị liệu kết hợp cùng các loại thuốc (hoặc bevacizumab) là không phù hợp cho thể trạng bệnh nhân. Do đó cần lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp, mang lại hiệu quả lâu dài và phù hợp sở thích của người bệnh.

Một loại thuốc điều trị mới: thuốc ức chế miễn dịch

Một số bệnh nhân hiện đang được sử dụng nhóm thuốc kháng thể nhắm mục tiêu mới gọi là thuốc ức chế chốt kiểm tra. Một đặc điểm của nhiều bệnh ung thư là chúng có thể tìm cách trốn tránh phản ứng miễn dịch của cơ thể chúng ta. Thuốc ức chế chốt kiểm soát mới có khả năng tái vận hành cơ chế miễn dịch của cơ thể, mang lại cơ hội lớn hơn để chống lại ung thư.

Thuốc đầu tiên sử đụng cho ung thư phổi là nivolumab, sau đó có pembrolizumab. Những loại thuốc này nhắm đến một thụ thể gọi là thụ thể gây chết tế bào theo chương trình-1 (PD-1). Tuy vậy, không phải tất cả các bệnh ung thư phổi đều biểu hiện thụ thể mục tiêu này ở cùng một mức độ và có khả năng các khối u biểu hiện PD-1 ở mức độ cao đáp ứng tốt hơn với các chất ức chế chốt kiểm tra so với các khối u có ít biểu hiện PD-1.

Các thử nhiệm thuốc mới này cùng với nhiều phương pháp điều trị được thảo luận ở trên đã góp phần khẳng định về tầm quan trọng của điều trị đích và cá thể hóa điều trị nhằm đưa ra phác đồ phù hợp nhất đối với từng đặc điểm phân tử cụ thể của bệnh ung thư ảnh hưởng trên từng bệnh nhân.

Dịch và tổng hợp từ

Personalised Medicine at a Glance: Lung Cancerprepared by ESMO for the European Alliance for Personalised Medicine in January 2015 and updated in February 2017

Targeted therapy for non-small cell lung cancer: current standards and the promise of the future – Bryan A. Chan and Brett G.M. Hughes

Metastatic non-small cell lung cancer: ESMO clinical practice guidelines for diagnosis, treatment, and follow-up. D Planchard, S Popat, K Kerr, S Novello, E F Smit, C Faivre-Finn, T S Mok, M Reck, P E Van Schil, M D Hellmann, S Peters, ESMO Guidelines Committee - 03 October 2018

Tài liệu tham khảo:

Ferlay J, Soerjomataram I, Ervik M, et al. GLOBOCAN 2012: Cancer Incidence and Mortality Worldwide: IARC CancerBase No. 11

Hanahan D, Weinberg RA. Hallmarks of cancer: the next generation 2011;144:646-74.

Planchard D, Popat S, Kerr K, et al. Metastatic non-small cell lung cancer: ESMO clinical practice guidelines for diagnosis, treatment, and follow-up. Ann Oncol. 2018;29(Suppl 4):iv192-iv237

 Nguồn: ungthubachmai.com.vn

Tin liên quan