Nintedanib: Thuốc mới, ức chế tăng sinh mạch bằng đường uống trong ung thư phổi

Ngày đăng: 07/04/2014 Lượt xem 3079

Các dữ liệu về Nintadanib đến từ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 dưới tên gọi LUME-Lung-1, vừa được công bố trên tạp chí Lancet Oncology.

Nghiên cứu LUME-Lung-1 là nghiên cứu đánh giá hiệu quả và độ an toàn của docetaxel phối hợp với nintedanib để điều trị bước 2 cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.

\"\"

Nghiên cứu bao gồm 1314 bệnh nhân đến từ 211 trung tâm của 27 quốc gia khác nhau, được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB/IVa tái phát sau điều trị hóa trị bước 1. Những bệnh nhân này được phân loại dựa vào tình trạng hoạt động (PS) theo thang điểm ECOG, đã được điều trị Bevacizumab trước đó, mô bệnh học và có di căn não hay chưa. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm ngẫu nhiên: 655 bệnh nhân được điều trị bằng Docetaxel 75mg/m2 truyền TM ngày 1, chu kỳ 3 tuần, và Nitendanib 200mg uống hai lần/ ngày, và 659 bệnh nhân được truyền Docetaxel và giả dược. Đánh giá dựa vào hai chỉ số: Thời gian sống bệnh không tiến triển (PFS) và thời gian sống còn toàn bộ (OS).

Kết quả ban đầu sau thời gian theo dõi trung bình là 7,1 tháng như sau:

-          Thời gian sống bệnh không tiến triển (PFS) ở nhóm dùng Docetaxel và Nintedanib là 3,4 tháng, tăng có ý nghĩa thống kế so với nhóm dùng Docetaxel và giả dược là 2,7 tháng (P = 0,0019)

-          Thời gian sống thêm toàn bộ (OS) không có ý nghĩa (10,1 tháng so với 9,1 tháng, P=0,27)

-          Tuy nhiên, bệnh nhân có mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến (n=322 bệnh nhân) điều trị Docetaxel và Nintedanib có thời gian sống thêm toàn bộ trung bình tốt hơn nhóm được điều trị bằng Docetaxel và giả dược (n= 336 bệnh nhân). Kết quả này có ý nghĩa thống kê với P=0,0359

-          Với những bệnh nhân tiến triển bệnh nhanh (trong vòng 9 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị), OS của nhóm được điều trị bằng Docetaxel và Nintedanib (n=206) tăng có ý nghĩa thống kê so với nhóm được điều trị Docetaxel và giả dược (n=206), (10,9 tháng so với 7,9 tháng, P=0,0073)

Tuy nhiên, một số chuyên gia về ung thư phổi không để ý đến các kết quả trên. MD-PhD Pasi Jane, đến từ trung tâm ung thư Dana Farber, Massachusetts, cho rằng PFS chỉ là 0,7 tháng có ý nghĩa thống kê nhưng không có nhiều ý nghĩa về lâm sàng, ông cũng nhấn mạnh rằng sự khác biệt về OS chỉ xuất hiện ở nhóm bệnh nhân có mô bệnh học là biểu mô tuyến. Ngoài ra, ông hoài nghi về việc nintedanib được chấp nhận sử dụng, ông cũng lưu ý một số chất ức chế tăng sinh mạch đã thử nghiệm thất bại trong ung thư phổi như Vandetanib, Sunitinib và Sorafenib.

Ông và nhiều người khác cho rằng các thử nghiệm lâm sàng sẽ có ý nghĩa hơn nếu tìm được một dấu ấn sinh học đặc hiệu.

Tác dụng phụ:

-               Các tác dụng phụ mức độ 3, độ 4 ở nhóm điều trị docetaxel đơn chất có tỷ lệ cao hơn so với nhóm điều trị Docetaxel và Nintedanib: ỉa chảy (6,6 % so với 2,6%); tăng men gan (3,4% so với 0,5%);

-               35 bệnh nhân điều trị docetaxel và nintedanib tử vong do tác dụng phụ, còn ở nhóm điều trị docetaxel đơn chất là 25 bệnh nhân. Nguyên nhân tử vong hay gặp khi điều trị Docetaxel và Nintedanib là nhiễm trùng huyết (5 bệnh nhân) và rối loạn hô hấp (4 bệnh nhân), không bệnh nào tử vong do tắc mạch phổi.

-               Nguyên nhân tử vong thường gặp của nhóm điều trị Docetaxel đơn chất là viêm phổi ( 7 bệnh nhân), tắc mạch phổi ( 3 bệnh nhân), không có bệnh nhân nào tử vong do rối loạn hô hấp.

MD,PhD Martin Reck, trưởng khoa ung thư lồng ngực của bệnh viện Lugen, Grosshansdorf, Đức phát biểu rằng: Tác dụng phụ của nintedanib có thể kiểm soát được. Tần suất xuất hiện biến chứng chảy máu và tăng huyết áp ở nhóm bệnh nhân dùng Docetaxel và Nintedanib thấp ( không có bệnh nhân chảy máu phổi, tăng huyết áp nặng). Ông cũng cho rằng, nindatenib có thể dùng cho bệnh nhân ung thư phổi tế bào vẩy mà chống chỉ định với Bevecizumab vì có nguy cơ xuất huyết cao.

Một thử nghiệm lâm sàng thứ hai với Nintedanib, được gọi là LUME-Lung-2, so sánh điều trị Nintedanib kết hợp với Pemetrexed và điều trị bằng Pemetrexed đơn chất đã thất bại, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm nghiên cứu.

Tóm lại: Nindetanib kết hợp với Docetaxel là lựa chọn điều trị bước 2 cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển sau khi điều trị bước một với hóa chất có nhóm platinum, đặc biệt là bệnh nhân có mô bệnh học là biểu mô tuyến.

Nindetanib hiện đang xin giấy phép sử dụng trên lâm sàng.

Những nghiên cứu này được tài trợ bởi Boehringer Ingelheim, nhà sản xuất của Nintedanib, và một số đồng tác giả là nhân viên công ty.

Người dịch: BSNT. Nguyễn Đức Luân

Theo thelancet/medscape

Tin liên quan