Xạ phẫu bằng dao gamma quay cho u tuyến yên tại Trung tâm Y Học Hạt Nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch mai

Ngày đăng: 05/06/2011 Lượt xem 7649
U tuyến yên thường xuất phát từ mô tuyến yên hay các di tích của phôi, bệnh này chiếm khoảng từ 15-20% tổng các u nội sọ, với tỉ lệ nam/nữ là 2/1 và chủ yếu gặp ở người trưởng thành, việc chẩn đoán bện dựa vào các triệu chứng lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, các xét nghiệm nội tiết…
 
Triệu chứng lâm sàng của bệnh phụ thuộc vào giai đoạn bệnh cũng như loại u tuyến yên là u không tiết hay tiết (tiết hormone)

+ Các u không tiết hormone thường được phát hiện khi u đã có kích thước lớn với biểu hiện của việc chèn ép các tổ chức lân cận như đau đầu, rối loạn thị lực ( bán manh, nhìn mờ…) thậm chí suy tuyến yên do u chèn ép vào tuyến yên lành

+ Các u bài tiết thường phát hiện bệnh khi kích thước u còn nhỏ nhưng trên lâm sàng biểu hiện của các rối loạn nội tiết khác nhau và bệnh nhân đến khám ở nhiều chuyên khoa với nhiều biểu hiện khác nhau: như vô kinh, tiết sữa, hiếm muộn… do u tiết prolactin bệnh nhân có khi đi khám vì hiếm muộn phát hiện ra u tuyến yên hoặc đái tháo đường tăng huyết áp, to viễn cực….

Trên hình ảnh MRI ( chụp cộng hưởng từ) không có đối quang từ, u tuyến yên có kích thước nhỏ có tín hiệu trên xung T1W thấp hơn so với tổ chức tuyến bình thường và cao hơn trên xung T2W. Sau khi tiêm thuốc đối quang từ thì những u kích thước nhỏ sẽ tăng tín hiệu chậm hơn nhu mô và sau 30 phút thì đồng tín hiệu

Điều trị u tuyến yên là sự phối hợp chặt chẽ của đa mô thức như điều trị nội khoa, phẫu thuật mở, xạ trị kinh điển và gần đây là xạ phẫu bằng dao gamma quay… với mục tiên là loại bỏ được khối u và/hoặc đưa hoạt động chức năng của tuyến yên về bình thường. Như vậy khi chẩn đoán và điều trị phải phân loại u tiết hoặc không và tiết loại hormone nào

+ Điều trị bằng phẫu thuật mở: là điều trị căn bản, ở những thập niên trước điều trị bệnh bằng phẫu thuật mở nắp hộp sọ lấy u thường có nhiều biến chứng, gần đây phẫu thuật bệnh này chủ yếu là phẫu thuật nội soi qua xoang bướm đã giảm tỉ lệ các biến chứng..tuy nhiên các trường hợp tái phát thì rất khó khăn và có thể có nhiều di chứng, đặc biệt các trường hợp bệnh nhân tuổi cao, nhiều bệnh mạn tính phối hợp, suy tuyến yên kéo dài, các trường hợp chống chỉ định gây mê hồi sức, u xâm lấn xoang hang …

+ Điều trị nội khoa: có vai trò quan trọng đối với các u tiết. Khi cần điều chỉnh hormone cho các trường hợp suy tuyến yên cần phải bổ sung các hormone bị thiếu hụt

+ Xạ trị: giúp làm chậm sự phát triển bệnh hoặc thoái lui bệnh trong các trường hợp u có kích thước lớn không phẫu thuật được

+ Gần đây xạ phẫu bang dao gamma quay (Rotating gamma knife) là phương pháp hữu ích và hiệu quả trong các u tuyến yên

Xạ phẫu bằng dao gamma quay là phương thức dùng tia bức xạ hội tụ một cách chính xác vào vùng tổn thương, nên sẽ giúp tiêu diệt chính xác tổn thương u tuyến yên và tránh tối đa các cấu trúc quan trọng xung quanh như, giao thoa thị giác, cuống tuyến yên… Bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo trong suốt quá trình xạ trị, thời gian nằm viện ngắn (thường 1 ngày).

Trên thế giới, tại các nước phát triển việc áp dụng xạ phẫu bằng dao gamma phát triển mạnh cho các u sọ não trong đó có u tuyến yên đã mở ra nhiều hy vọng trong điều trị các bệnh lý trong nội sọ khắc phục được nhiều nhược điểm của mổ mở và bổ sung sự lựa chọn cho các bệnh nhân không phẫu thuật mở được

Dao gamma quay (Rotating gamma knife)

Dao gamma quay là hệ thống xạ phẫu bằng dao gamma hiện đại do Hòa kỳ sản xuất, hệ thống xạ phẫu bằng dao gamma quay (kết nối và lập kế hoạch xạ phẫu với hình ảnh của CT, MRI, PET/CT  mô phỏng) được áp dụng tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2007. Đến nay đã điều trị cho hàng nghìn bệnh nhân u não và các bệnh lý nội sọ, trong đó có rất nhiều bệnh nhân u tuyến yên phức tạp hoặc đã thất bại với các phương pháp điều trị khác. Kết quả điều trị và theo dõi bệnh nhân cho thấy dao gamma quay có các ưu điểm vượt trội so với dao gamma cổ điển. Hệ thống collimator quay giúp giảm liều tại các vùng quan trọng của não như vùng hạ đồi, giao thoa thị giác, dây thần kinh mắt, tuyến yên lành ,do vậy han chế tối đa các tác dụng phụ

Nhiều bệnh nhân sau điều trị, u hoàn toàn tiêu biến hoặc ổn định các triệu chứng lâm sàng, nồng độ các hormon nội tiết của tuyến yên trở về bình thường

Bênh nhân được đánh giá và theo dõi sau điều trị bao gồm các triệu chứng lâm sàng ( sau điều trị cải thiện hơn), các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như chụp CT scanner, MRI sọ não, và đặc biệt là các xét nghiệm hormone ( prolactin….) trước và sau điều trị như là một tiêu chí của đánh giá kết quả điều trị, nồng độ các hormone ở u tiết này sẽ giảm dần theo thời gian, thay đổi triệu chứng lâm sàng.

Một số bệnh nhân được điều trị có kết quả

1. Bệnh nhân nữ, 33t: chẩn đoán u tuyến yên tăng tiết hormone tăng trưởng (GH), tái phát sau phẫu thuật mở, u tái phát lan rộng xâm lấn xoang hang, không có khả năng phẫu thuật mở được
  

2. Bệnh nhân nữ 20 tuổi, nghề nghiệp: Sinh viên. Chẩn đoán u tuyến yên có đau đầu dữ dội, điều trị nội khoa nhiều nơi không có kết quả

Sau 3 năm xạ phẫu đã tốt nghiệp đại học, lâm sàng bình thường

 

3. Bệnh nhân nữ 27 tuổi: chẩn đoán u tuyến yên, tiết prolactin có vô kinh , tiết sữa



Mai Trọng Khoa, Vương Ngọc Dương, Trần Đình Hà, Lê Chính Đại
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai

Tin liên quan