Trong trường hợp thai trứng, nhau thai phát triển thành khối không được kiểm soát. Hiện nay, chưa biết rõ nguyên nhân bệnh, nhưng có những khả năng sau: sai sót ở trứng hoặc sai sót ở quá trình thụ tinh, bất thường ở dạ con, thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, axit folic, carôten.
Thai trứng là hiện tượng sản sinh quá mức của nhau thai. Bình thường, nhau thai có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai trong thời kỳ thai nghén. Trong trường hợp thai trứng, nhau thai phát triển thành khối không được kiểm soát.
Đa số trường hợp không có bào thai, được gọi là "thai trứng hoàn toàn", một số trường hợp có bào thai nhưng không sống được gọi là "thai trứng bán phần".
Gọi là thai trứng vì trong dạ con có nhiều nang trông như các quả trứng hoặc chùm nho do các lông nhau thai sinh sôi và căng phồng.
Khoảng 80% thai trứng là lành tính, bệnh khỏi sau khi nạo (hoặc cắt dạ con ở người không có nhu cầu sinh đẻ nữa).
Hiện nay, chưa biết rõ nguyên nhân bệnh, nhưng có những khả năng sau: sai sót ở trứng hoặc sai sót ở quá trình thụ tinh, bất thường ở dạ con, thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, axit folic, carôten.
Do vậy, ăn uống đầy đủ các chất có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.
10 - 15% thai trứng gây phiền toái
Khoảng 10 - 15% thai trứng trở thành loại xâm nhập, bệnh ăn sâu vào thành dạ con, gây chảy máu và các phiền phức khác. Khoảng 2 - 3% thai trứng trở thành ung thư nhau thai, bệnh phát triển nhanh, lan rộng, di chuyển tới các nơi khác như phổi, não... gọi là di căn.
Sản phụ có các biểu hiện: chảy máu âm đạo; ra dịch, các vật bất thường. Các lông nhau hình quả nho; đau bụng dưới; nôn hoặc buồn nôn; chảy dịch đầu vú bất thường. Bụng dưới to như có thai; Bụng không nhỏ lại sau khi sinh. Khi bệnh để muộn, người bệnh sẽ khó thở, liệt, co giật.
Một phụ nữ có các biểu hiện trên, nên đến khám tại cơ sở y tế. Thầy thuốc sẽ khám, siêu âm, thử máu, trong đó có xét nghiệm HCG, thử nước tiểu, nạo buồng dạ con sau khi loại trừ thai bình thường, chụp X-quang phổi (và có thể làm thêm các chụp chiếu khác).
Đối với thai trứng, thầy thuốc sẽ nạo sạch "trứng" với người có nhu cầu sinh con hoặc cắt tử cung đối với người không có nhu cầu sinh đẻ nữa.
Sau khi được chữa thai trứng, người bệnh cần xét nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần một lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường. Tiếp theo sẽ thử nước tiểu 4 tuần một lần. Thời gian theo dõi 6 tháng. Ngoài ra, thầy thuốc có thể siêu âm nếu thấy cần thiết.
Nếu bệnh trở thành thai trứng xâm nhập hoặc ung thư nhau thai, thầy thuốc sẽ dùng các phương pháp chữa bệnh sau: chữa bằng hoá chất (dùng thuốc để diệt ung thư), chữa bằng phẫu thuật ở một số trường hợp, hay chữa bằng tia xạ (dùng tia phóng xạ để diệt ung thư trong một số trường hợp).
Sau chữa bệnh, người bệnh cần đi khám lại, thử máu, nước tiểu định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Với những người có nguyện vọng sinh con, cần có biện pháp tránh thai ngay sau chữa bệnh. Chỉ nên có thai sau 1 năm từ ngày chữa bệnh, thử HCG vào tuần 6 và 10 của thai.