PNO - Ung thư vú ở phụ nữ đang mang thai là ung thư xảy ra trong thời gian mang thai, hoặc trong khoảng một năm tính từ thời điểm mang thai.
Theo các tài liệu nghiên cứu, ở thời điểm chẩn đoán, phụ nữ ung thư vú đang mang thai thường ở giai đoạn trễ của bệnh, tế bào ung thư ác tính hơn và có ít thụ thể hormone hơn so với phụ nữ ung thư vú không mang thai.
Một số suy luận cho rằng, ung thư vú ở phụ nữ mang thai có tiên lượng xấu là do ung thư xảy ra ở bệnh nhân trẻ và chậm trễ trong chẩn đoán. Điều trị tiến hành ngay khi có chẩn đoán, nhưng phải thận trọng. Bệnh nhân và thầy thuốc sẽ cùng thảo luận từng phương pháp điều trị bao gồm các nguy cơ cho mẹ và thai.
Đối với người mẹ, nguy cơ xuất hiện ung thư ở vú còn lại trong ba tháng đầu của thai kì là rất lớn. Do đó, đánh giá toàn diện là bước quan trọng đầu tiên và bắt buộc trong điều trị. Các phương pháp chẩn đoán hiện nay bằng hình ảnh như siêu âm kèm theo nhũ ảnh có che chắn vùng bụng để bảo vệ thai, chọc hút ung thư bằng kim nhỏ.
Ở thời điểm chẩn đoán, bệnh có thể ở giai đoạn cuối nên phải đánh giá giai đoạn bằng X quang phổi có che chắn vùng bụng, siêu âm gan và MRI cột sống. Ngoài đánh giá nguy cơ, tham vấn ý kiến của bác sĩ chuyên khoa ung thư, trao đổi với bệnh nhân về một số phương pháp điều trị cũng cần thiết.
Nếu bệnh chưa di căn thì điều trị tận gốc nên được tiến hành ở ba tháng cuối thai kì vì chưa thấy nguy cơ cho thai trong thời gian này. Áp dụng điều trị bảo tồn vú khi gần ngày sinh hoặc khi có kết hợp hóa trị hỗ trợ hoặc tân hỗ trợ.
Hóa trị trong 6 tháng cuối thai kì tương đối an toàn. Phương pháp này được áp dụng trước phẫu thuật và làm chậm phát triển khối u, nhưng không nên áp dụng ở 3 tháng đầu thai kì vì tỉ lệ dị tật cho thai khoảng 17%. Trong khi đó, con số này là 1,3% nếu hóa trị trong 6 tháng cuối. Suốt thời gian hóa trị, siêu âm thai nên được tiến hành đều đặn.
Đã có một thử nghiệm về hóa trị cho 57 phụ nữ đang mang thai trong 6 tháng cuối của thai kì bằng công thức FAC, (5-fluorouracil/doxorubicin/cyclophosphamide). Với thời gian theo dõi là 38,5 tháng, có 40 phụ nữ còn sống và khỏi bệnh. Đa số các em bé có mẹ được hóa trị khi đang mang thai hoàn toàn khỏe mạnh, không mắc dị tật. Chỉ có một bé mắc hội chứng Down.
Một nghiên cứu khác với 22 phụ nữ đang mang thai tham gia hóa trị bằng 4 chu kì FAC cũng cho kết quả tương tự. Nguy cơ nhiễm trùng cho mẹ và thai rất cao khi hóa trị hỗ trợ trước sinh, xạ trị cũng không nên chỉ định vì nguy cơ nhiễm xạ cho thai, vì vậy phẫu thuật là chọn lựa phù hợp nhất. Trong thời gian sau sinh, phẫu thuật bảo tồn vú sau xạ trị cũng là một chọn lựa phù hợp khác. Điều trị bằng hormone nên chỉ định sau sinh. Một số thuốc có hại, ví dụ Tamoxifen có thể gây dị dạng cho thai.
Vì ung thư vú ở phụ nữ mang thai có biểu hiện lâm sàng và giải phẫu bệnh bất lợi nên điều trị đa mô thức thường được áp dụng cho đa số trường hợp. Phương pháp này đạt kết quả tốt và an toàn cho cả mẹ và thai. Điều trị bắt đầu trước sinh liên tục tới sau sinh. Tiên lượng cho những trường hợp này giống như điều trị ung thư vú ở phụ nữ không mang thai khi cả hai nhóm cùng ở một giai đoạn bệnh. Một điều lưu ý là chấm dứt thai kì không cải thiện tiên lượng cho phụ nữ ung thư vú đang mang thai.