Lây nhiễm virut viêm gan C
Virut viêm gan C (HCV) lưu hành trong máu, do đó bệnh viêm gan C lây truyền chủ yếu qua đường máu. HCV RNA đã được phát hiện ở nước bọt, máu kinh, tinh dịch, nước tiểu, dịch não tủy và dịch báng trong xơ gan cổ trướng. HCV ở trong huyết thanh khô vẫn có khả năng gây nhiễm tại nhiệt độ phòng trên 16 giờ. Có nhiều đường lây bệnh: lây nhiễm do truyền từ máu hay trong lúc sinh từ mẹ sang con, lây qua các dụng cụ như: bơm kim tiêm, dụng cụ nội soi, kim châm cứu, kim xăm mình, dao cạo râu, dụng cụ cắt sửa móng tay, tiêm chích ma tuý...
Những nghiên cứu về lây nhiễm viêm gan virut C do quan hệ giới tính có tỷ lệ rất thấp ở vợ chồng hay người bạn tình ổn định. Tuy nguy cơ lây nhiễm qua quan hệ tình dục của HCV là nhỏ, nhưng việc đồng nhiễm với HIV có thể gia tăng lây nhiễm HCV, đặc biệt giữa những người đồng tính luyến ái nam. Trẻ sơ sinh nhiễm HCV từ 2,7 - 8,4% số trẻ được sinh ra do các bà mẹ bị nhiễm HCV, tỷ lệ này cao hơn ở con các bà mẹ đồng nhiễm HIV và HCV.
Một vài nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc viêm gan virut C cấp có triệu chứng ở Hoa Kỳ là 0,2 trường hợp trên 100.000 dân vào năm 2005; ở Italia năm 2001 là 1 trường hợp trên 100.000 dân; ở Hàn Quốc viêm gan virut C cấp có triệu chứng chỉ là 2% tổng số các trường hợp viêm gan virut cấp (virut A đến virut E ); tỷ lệ kháng thể HCV dương tính của bệnh nhân viêm gan virut cấp ở các nước châu Á: 3,9 - 9,7% ở Trung Quốc, 4,9 - 11% ở Ấn Độ, 5,4% ở Malaysia và 10% ở Việt Nam. |
Diễn tiến của bệnh viêm gan virut C
Nhiễm khuẩn cấp tính: hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng, số ít có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, có thể vàng da, vàng mắt, nước tiểu đậm màu. Chẩn đoán bệnh dựa vào xét nghiệm máu.
Nhiễm khuẩn mạn tính: khoảng 85% trường hợp nhiễm HCV sẽ chuyển thành viêm gan mạn tính. Đặc điểm của bệnh viêm gan C mạn tính là tiến triển thầm lặng từ 10-30 năm, cho nên bệnh nhân không biết mình mắc bệnh và không được chẩn đoán điều trị kịp thời. Nhiều trường hợp bệnh nhân chỉ được phát hiện khi đã có biến chứng nặng như: xơ gan cổ trướng với biểu hiện báng bụng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, có thể vỡ gây chảy máu ồ ạt và tử vong; gan đã bị xơ khó hồi phục lại, dù tình trạng viêm có thuyên giảm; biến chứng ung thư tế bào gan.
Về dấu hiệu cận lâm sàng: viêm gan virut C có triệu chứng điển hình là gia tăng đột ngột men alamine aminotransferases (ALT) huyết thanh từ tuần 10 - 14 sau khi bị nhiễm. Việc hồi phục hoàn toàn khỏi nhiễm HCV ước tính chỉ dưới 20%. Những bệnh nhân viêm gan virut C có triệu chứng sạch virut tự nhiên cao hơn những bệnh nhân không triệu chứng. Những bệnh nhân nhiễm cấp nặng, đặc biệt là biểu hiện vàng da, hoặc bệnh nhân có biểu hiện gia tăng hơn của hoạt tính men aminotransferase có ảnh hưởng đến sự sạch virut tự nhiên bởi có những đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ hơn.
Chẩn đoán
Virut viêm gan C mới được phát hiện từ năm 1989, nên xét nghiệm chẩn đoán bệnh cũng mới có trong những năm gần đây. Xét nghiệm máu thấy men gan tăng chứng tỏ tế bào gan đang bị hủy hoại. Người ta cũng tìm thấy kháng thể chống HCV dương tính trong hầu hết các trường hợp. Chức năng gan có thể rối loạn tùy mức độ và thời gian bị bệnh. Xét nghiệm HCV RNA phát hiện virut trong máu. Men ALT tăng hơn 5 lần so với bình thường và huyết thanh dương tính với HCV RNA cùng với tiền sử rõ ràng có thể chẩn đoán được viêm gan C cấp. Xét nghiệm kháng thể HCV có thể dương tính hay âm tính trong suốt giai đoạn cấp tính nhưng hầu hết các trường hợp cho thấy việc đảo ngược huyết thanh từ âm sang dương của kháng thể HCV ở giai đoạn sau. Thời gian của việc xuất hiện kháng thể HCV hay việc đảo ngược huyết thanh thay đổi từ 8 - 20 tuần. Số ít bệnh nhân vẫn âm tính kháng thể HCV trong suốt giai đoạn cấp tính. Có 7- 40% bệnh nhân không phát hiện được kháng thể sau khi đã sạch HCV một cách tự nhiên. Do đó không có bằng chứng về huyết thanh của việc nhiễm HCV sau khi đã hồi phục.
Hiện nay điều trị viêm gan virut C chủ yếu dùng interferon alpha. Đây là một chất do cơ thể sinh ra nhờ các tế bào đề kháng khi bị nhiễm virut. Sau khi tiêm interferon alpha, hầu hết bệnh nhân thấy sốt nhẹ, mệt mỏi giống như cúm trong vài giờ, đó chính là interferon alpha đã khởi động đáp ứng của cơ thể chống lại HCV. Những triệu chứng này giảm dần sau một vài tuần. Người ta còn dùng phối hợp kháng sinh như kết hợp interferon alpha với ribavirin cho kết quả khỏi bệnh cao hơn. Phác đồ điều trị tối ưu hiện nay là sử dụng kết hợp peg-interferon (Pegasys hoặc Peg-Intron) với ribavirine. Thời gian điều trị phải kéo dài từ 6 - 12 tháng tùy từng trường hợp. Điều trị và phòng bệnh
Để phòng bệnh cần thực hiện các biện pháp : tập thể dục, thể thao vừa sức giúp tăng cường sức khỏe. Hạn chế uống rượu bia, bởi vì xơ gan dễ xảy ra hơn ở người viêm gan đồng thời nghiện rượu. Bệnh nhân viêm gan C có thể ăn theo chế độ ăn bình thường. Khi đã xơ gan, nên áp dụng chế độ ăn giảm muối. Nên sử dụng phương pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục.
BS. Trần Thanh Tâm