BSNT. Trần Ngọc Hải
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu-Bệnh viện Bạch Mai
Gần đây với những tiến bộ chẩn đoán, ngày càng chúng ta càng phát hiện nhiều những ca bệnh u thần kinh nội tiết (NET – Neuroendocrine Tumor),
đặc biệt ở đường tiêu hóa. Bệnh rất khó chẩn đoán, phần lớn khi phát
hiện đã ở giai đoạn muộn, tiên lượng nặng, điều trị gặp nhiều khó khăn.
Trong bài viết này chúng tôi đề cập một số tiến bộ trong chẩn đoán vàđiều trị NETs những năm gần đây.
Tế bào thần kinh nội tiết là những tế bào chế tiết nội tiết tố peptide mà có chung kiểu hình thần kinh – nội tiết như: Tế bào D ở ống tiêu hoá tiết Somatostatin, tế bào G ở ống tiêu hoá tiết Gastrin, tế bào B ở tuỵ tiết Insulin...U tế bào thần kinh nội tiết là tập hợp một nhóm đa dạng các loại u xuất phát từ những tế bào thần kinh – nội tiết khác biệt hiện diện ở khắp nơi trên cơ thể. Biểu hiện lâm sàng của chúng thay đổi tuỳ theo u có hoạt động chức năng hay không, u có thể tự phát hoặc di truyền, đường tiêu hoá là vị trí nguyên phát thường gặp nhất của NET, Tỉ lệ phân bố: Trực tràng là 17,6%, ruột non 17,3%, đại tràng 10,1%, hỗng tràng 8%, tuỵ 7,0%, dạ dày 6,0%... Trung vị sống còn trên bệnh nhân NET di căn là 33 tháng, tỉ lệ sống còn 5 năm trên bệnh nhân NET di căn tương tự như những ung thư di căn khác, 65% số bệnh nhân với NET tiến xa sẽ không còn sống sau 5 năm. 53% bệnh nhân có khoảng thời gian ghi nhận từ khi có triệu chứng đầu tiên đến khi chẩn đoán NET cần > 2 năm và 34% cần > 5 năm. Chẩn đoán trước khi có chẩn đoán NET:49% báo cáo NET không phải là chẩn đoán ban đầu; đa số được chẩn đoán với những tình huống tiêu hoá khác, 38% bị chẩn đoán với tình trạng tâm thần, bao gồm lo lắng và những triệu chứng tâm lý thân thể, 78% không nghĩ triệu chứng của mình là do bệnh lý ung thư. Điều này cho thấy chẩn đoán NET là rất khó, hay chẩn đoán nhầm lẫn với các căn bệnh khác.
Phân loại NETs theo vị trí, Ruột trước: Tuyến ức, thực quản, phổi, dạ dày, tá tràng. Ruột giữa: ruột thừa hỗng tràng, hồi tràng, đại tràng lên. Ruột cuối: Đại tràng đoạn xa,trực tràng.
Phân loại U TKNT có chức năng gặp trên 8 – 35% số bệnh nhân NETs và trong đa số trường hợp có di căn gan. Hậu quả của những peptide vận mạch như serotonin, histamine hay tachykinins được phóng thích vào trong tuần hoàn, biểu hiện bởi từng đợt bừng mặt, khò khè, tiêu chảy và có thể tiến triển thành bệnh tim do hội chứng carcinoid. Phân loại theo độ mô học: Độ 1, độ 2, độ 3
Chẩn đoán NETs dựa vào những dấu ấn sinh học cho tất cả vị trí: CgA, CgB có độ đặc hiệu cao, PP, NSE, Neurokinin, neurotensin có độ đặc hiệu trung bình, HCG-α, HCG-β có độ đặc hiệu thấp. Chẩn đoán NET cần hoá mô miễn dịch: Chromogranin A (CgA),Chromogranin B (CgB), Synaptophysine CD56, CD57, NSE . Hệ thống xếp giai đoạn TNM theo ENETS/AJCC, giai đoạn bao gồm: vị trí, kích thước bướu, di căn hạch hay di căn xa
Điều trị NETs: Chức năng kép của đồng phân SOMATOSTATIN có tác dụng: Kiểm soát triệu chứng nội tiết và hoạt tính kháng bướu.Tín hiệu Somatostatin trong NETs làm ức chế chế tiết và tăng sinh, chúng tác động trên con đường IGF-1/PI3K/mTOR, hơn 90% NETs biểu hiện thụ thể somatostatin, thụ thể somatostatin có thể được chia thành 5 phân nhóm: SSTRs1-5, tuỳ thuộc cấu trúc và chức năng, trong NET, SSTR2, SSTR5 và SSTR1 thường biểu hiện nhất, sau đó SSTR4 và SSTR3.Octreotide LAR là đồng phân Sandostatin làm giảm chế tiết hormon thần kinh do đó có thể kiểm soát triệu chứng nội tiết, những đợt tiêu chảy nặng và bừng mặt giảm xuống ≥50% trên khoảng 74% tới 89% số bệnh nhân có hội chứng carcinoid. Tần suất tiêu chảy giảm 42%, tần suất bốc hoả giảm 84%.
Ngoài ra Octreotide LAR còn có hoạt tính kháng u, chúng kéo dài một cách có ý nghĩa thời gian ổn định bệnh cho đến khi bướu tiến triển: Giảm 66% nguy cơ bướu tiến triển cải thiện thời gian sống thêm không bệnh cho đến khi tiến triển bướu trong hầu hết các phân nhóm. Octreotide LAR kéo dài thời gian ổn định bệnh trên bệnh nhân bất kể có hội chứng carcinoid hay không.
Tóm lại có những tiến bộ trong điều trị NETs những năm gần đây Các đặc điểm chẩn đoán có liên quan điều trị đã ngày càng rõ rệt hơn. Đối với NETs ruột giữa tiến xa biệt hoá rõ: Octreotide LAR 30 mg cho TTP tăng gấp đôi (trung vị 14,3 tháng vs 6 tháng với giả dược; P=0,000072; HR=0,34; 95% CI: 0,20–0,59) trên những bệnh nhân chưa điều trị có hay không có hội chứng carcinoid. Kết quả này làm “thay đổi thực hành lâm sàng” và đã được đưa vào các hướng dẫn điều trị.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn