Có gì mới trong xạ trị
CÓ GÌ MỚI TRONG XẠ TRỊ?
- Xạ trị không gian 3 chiều (3D - CRT : Three-dimensional conformal radiation therapy) là cách dùng hình ảnh CT kết hợp với vi tính để xác định chính xác vị trí của ung thư trong không gian 3 chiều. Bệnh nhân được mang một dụng cụ đỡ bằng nhựa để giữ cơ thể đứng yên. Luồng tia xạ phù hợp với hình dạng khối u được đưa đến khối u từ nhiều hướng khác nhau. Cách xạ trị này giúp làm giảm lượng phóng xạ đi qua những mô bình thường của cơ thể. Bằng cách nhắm mục tiêu của chùm tia chính xác hơn có thể làm giảm sự tổn thương do phóng xạ đối với các mô lành và tiêu diệt các tế bào ung thư tốt hơn bằng cách tăng liều phóng xạ đến khối u.
- Xạ trị ung thư chuẩn hóa (IMRT - Intensity modulated radiation therapy) là một dạng cải tiến hơn nữa của cách xạ trị từ bên ngoài dùng photon. Như đối với 3D-CRT, chương trình vi tính được sử dụng để xác định chính xác khối u trong không gian 3 chiều. Nhưng cùng với việc phóng các tia photon từ nhiều hướng khác nhau, cường độ của tia cũng có thể được điều chỉnh. Điều này cho phép kiểm soát nhiều hơn nữa bằng cách giảm lượng phóng xạ tiếp xúc với mô lành trong khi đưa lượng phóng xạ cao hơn đến khối u. Do độ chính xác của nó, bệnh nhân cần phải nằm đúng vị trị và hoàn toàn không được cử động trong khi điều trị. Thường cần phải dùng một dụng cụ đỡ hoặc khung được làm trước khi điều trị để giữ cơ thể.
- Một kỹ thuật liên quan là xạ trị bằng tia proton thích hợp (conformal proton beam radiation therapy) là cách dùng tia proton thay vì dùng tia X. Proton là một phần của nguyên tử ít gây tổn thương cho các mô nó đi qua nhưng lại có tính phá hủy tế bào tốt ở cuối đường đi của nó. Điều này có nghĩa là xạ trị bằng tia proton có thể đưa nhiều phóng xạ đến khối u hơn và giảm những tác dụng phụ đến các mô bình thường gần đó hơn. Proton chỉ có thể được phóng ra bởi những máy đặc biệt có tên là máy gia tốc (cyclotron hoặc synchrotron). Cài đặt loại máy này có thể phải tốn hàng triệu USD và cần những chuyên gia thực hiện. Do đó, cách điều trị này có thể rất đắt tiền và chỉ có một số ít trung tâm ở Mỹ mới làm được. Cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để so sánh hiệu quả giữa cách điều trị bằng proton với photon để có thể dùng cho những loại ung thư thích hợp cho kết quả tốt nhất.
- Xạ phẫu (Stereotactic radiosurgery hoặc stereotactic radiation therapy): phát ra một lượng phóng xạ lớn chính xác đến khu vực u nhỏ. Thuật ngữ \"phẫu thuật\" có thể gây nhầm lẫn do không có vết cắt nào được thực hiện ở phương pháp này cả. Một số khối u xuất phát từ não hoặc ở nơi khác lan đến não được điều trị bằng kỹ thuật này. Một khung đội đầu có dạng hộp được gắn vào sọ để giữ yên và cho phép tia xạ được định hướng chính xác. Khi vị trí chính xác của khối u đã được xác định (bằng CT hoặc MRI), các tia xạ từ một loại máy có tên là Gamma Knife sẽ nhắm đến khối u từ hàng trăm góc khác nhau trong một thời gian ngắn. Tiến trình này có thể lập lại nếu cần thiết. Một cách khác gần giống với cách dùng này là dùng máy gia tốc tuyến tính có thể di chuyển được và được kiểm soát bởi máy vi tính. Thay vì phóng nhiều tia cùng một lúc, máy sẽ chạy xung quanh và phóng tia đến khối u theo những góc khác nhau. Một số loại máy vận hành theo cách này có tên là X-Knife, CyberKnife và Clinac. Kỹ thuật này được dùng nhiều nhất ở các khối u trong não và tủy sống, các nhà nghiên cứu đang tìm cách sử dụng chúng cho các dạng ung thư khác.
- Xạ trị trong phẫu thuật (Intraoperative radiation therapy - IORT) là cách đưa phóng xạ đến khối u trong khi mổ. Chất phóng xạ có thể được đưa từ bên trong hay bên ngoài, và nó thường đi kèm với một đợt xạ trị từ bên ngoài trước hoặc sau khi mổ. IORT hữu ích đối với các ung thư vùng bụng hoặc khung chậu (đặc biệt là những khối u phát triển gần những vị trí nguy hiểm) và những ung thư có khả năng phát triển trở lại sau phẫu thuật. Những mô bình thường có thể được dời đi và được bảo vệ trong khi phẫu thuật, do đó IORT làm giảm lượng mô bình thường tiếp xúc với phóng xạ cho phép đưa một lượng lớn phóng xạ đến khối u hơn. IORT được thực hiện trong phòng phẫu thuật đặc biệt có tường được phủ bởi lớp bảo vệ chống phóng xạ.
- Liệu pháp nhiệt (hyperthermia) là cách dùng nhiệt để điều trị ung thư. Nhiệt được phát hiện ra là có thể tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng khi sử dụng đơn đột chúng không tiêu diệt đủ để trị khỏi ung thư. Nhiệt tạo ra các vi sóng và siêu âm đang được nghiên cứu kết hợp với phóng xạ và chứng tỏ có thể làm gia tăng hiệu quả của phóng xạ.
- Chất nhạy phóng xạ là những chất làm các tế bào ung thư nhạy cảm với phóng xạ hơn. Một số thuốc hóa trị đã được dùng cũng là chất nhạy cảm phóng xạ. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng tìm ra những chất mới có thể làm khối u nhạy cảm với phóng xạ hơn mà không ảnh hưởng đến những mô bình thường.
- Chất bảo vệ phóng xạ là những chất bảo vệ các tế bào bình thường khỏi phóng xạ. Những loại thuốc này rất có ích ở những khu vực mà các mô bình thường khó tránh khỏi phải bị tiếp xúc với phóng xạ khi điều trị, chẳng hạn như vùng đầu và cổ. Một số thuốc bảo vệ như amifostine (Ethyol®) đang được sử dụng trong khi một số khác đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.