ThS. Nguyễn Tiến Lung.
Đơn vị Gen - Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu,
Bệnh viện Bạch Mai
Tế bào gốc trong cơ thể làm việc như một hệ thống sửa chữa,
tái tạo bằng cách phân chia thành các tế bào chuyên biệt để bổ sung, thay thế
các tế bào già yếu, giảm chức năng hay mất chức năng. Công nghệ tế bào gốc ra
đời mang lại những hy vọng lớn trong làm lành vết thương, sửa chữa các mô/cơ
quan hỏng, mở ra một chuyên ngành y khoa mới: y học tái tạo (Regenerative
Medicine). Trong đó, tế bào gốc trung mô là loại tế bào gốc có tiềm năng ứng
dụng lớn nhất trong y học tái tạo.
Đại
cương về tế bào gốc trung mô
“Trung mô” là thuật ngữ để
chỉ mô liên kết thưa đang phát triển của phôi, chủ yếu bắt nguồn từ trung bì và
tạo ra phần lớn các tế bào của mô liên kết ở cơ thể trưởng thành. Các tế bào
gốc trung mô (Mesenchymal Stem Cell – MSC) là các tế bào đệm đa tiềm năng, có
thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau của mô liên kết bao gồm nguyên
bào xương, nguyên bào sụn, tế bào cơ, tế bào mỡ,…
Nguồn
thu nhận MSC
MSC có thể được thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau như:
tủy xương, mô mỡ, dây rốn trẻ sơ sinh, nhau thai, dịch ối, răng sữa, nội mạc tử
cung,…
Tủy xương là nguồn thu nhận MSC đầu tiên, và hiện nay vẫn
được sử dụng nhiều nhất. MSC tủy xương được coi là nguồn tế bào tốt nhất và
được lấy làm tiêu chuẩn để so sánh với MSC từ các nguồn khác.
Những MSC nguyên thủy nhất (tiềm năng biệt hóa cao nhất)
được phân lập từ dây rốn (thạch rốn, máu cuống rốn) và nhau thai. Những nguyên
liệu này bị coi là rác thải y tế và thường bị vứt bỏ, do đó dễ dàng thu thập,
không cần thao tác trên bệnh nhân. Đồng thời, MSC có thể được phân lập từ thạch
rốn mà ít lẫn các loại tế bào khác, trong khi máu cuống rốn có thể đồng thời
thu nhận cả MSC và tế bào gốc tạo máu.
Mô mỡ là nguồn thu nhận MSC dồi dào nhất, do nó phân bố
khắp nơi trong cơ thể, đồng thời có thể tự tái tạo. Người ta có thể dễ dàng thu
nhận đủ số lượng MSC cần thiết mà không cần trải qua quá trình nuôi cấy. Nhờ số
lượng tế bào rất lớn, MSC mô mỡ được sử dụng tự thân ngay sau khi phân lập, vì
thế tránh được hiện tượng miễn dịch thải ghép. Tuy nhiên, tiềm năng biệt hóa
của MSC mô mỡ kém hơn từ hai nguồn trên.
Các nguồn MSC khác thường thu được số lượng MSC hạn chế,
nên thường chỉ sử dụng trong nghiên cứu tế bào, khó có thể ứng dụng vào trị
liệu.
Tiêu
chuẩn xác định MSC
Khi được tách ra khỏi cơ thể, MSC thường lẫn nhiều loại
tế bào khác, bằng mắt thường không thể phân biệt được. Để xác định MSC, Hiệp
hội Quốc tế về Liệu pháp Tế bào (International Society for Cellular Therapy) đã
đề xuất một bộ tiêu chuẩn cho loại tế bào này, bao gồm các điểm chính:
+
Thể hiện
đặc điểm kết dính trong điều kiện nuôi cấy thông thường và có hình thái nguyên
bào sợi (tế bào dài và mỏng, thuôn nhọn hai đầu, có một nhân tròn lớn chứa một
hạch nhân,…)
+
Có thể
biệt hóa thành các loại tế bào thuộc mô liên kết (mỡ, cơ, xương, sụn,…)
+
Biểu hiện
một số loại kháng nguyên bề mặt như CD73, CD90, CD105 (ngoài ra biểu hiện một
số kháng nguyên khác như CD29, CD44, CD140b, CD146,… tùy theo nguồn phân lập),
không biểu hiện các kháng nguyên CD11b, CD14, CD19, CD34, CD45, CD79a, HLA-DR.
Trong các tiêu chuẩn nhận biết MSC, việc nuôi cấy, biệt
hóa MSC đòi hỏi thời gian dài và chi phí cao, trong khi đó sử dụng các marker
bề mặt là phương pháp nhanh chóng, thuận tiện và đặc hiệu nhất để xác định MSC.
Việc xác định MSC thông qua các kháng nguyên bề mặt cần được thực hiện thông
qua ít nhất 3 chỉ thị dương tính (CD73, CD90, CD105) và ít nhất 2 chỉ thị âm
tính để tránh nhầm lẫn với một số loại tế bào khác (do mỗi loại kháng nguyên bề
mặt thường được biểu hiện ở nhiều loại tế bào khác nhau). Cần lưu ý rằng ở Việt
Nam, khi nói “tế bào gốc” người ta thường nhắc đến tế bào gốc tạo máu là loại
tế bào dương tính với CD34, nên thường hiểu tế bào gốc dương tính với CD34.
Thực ra ngoài tế bào gốc tạo máu, hầu hết các loại tế bào gốc (trong đó có MSC)
đều âm tính với CD34.
Bảng
1. Một số kháng nguyên bề mặt phát hiện ở trên MSC
Kháng
nguyên
|
Loại
tế bào biểu hiện
|
CD73
|
Tế bào gốc trung mô, đại thực bào, tế
bào B và T hoạt động,
|
CD90
|
Tế
bào gốc trung mô, tế bào tạo máu, tế bào thần kinh, nguyên bào sợi, tế bào
nền, tế bào nội mô hoạt động
|
CD105
|
Tế
bào gốc trung mô, tế bào nội mô, bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, tế bào tiền
thân của hồng cầu
|
CD29
|
Tế
bào gốc trung mô (từ mô mỡ, nhau thai, nước ối, răng sữa), bạch cầu
|
CD44
|
Tế
bào gốc trung mô (từ mô mỡ, nước ối, bao quy đầu), hầu hết các bạch huyết cầu
(“lymphohematopoietic cells”, sản sinh ra tế bào máu, tủy xương, lá lách,
hạch bạch huyết, tuyến ức)
|
CD146
|
Tế
bào gốc trung mô (từ nội mạc tử cung), tế bào nội mô, tế bào đuôi nang trứng,
tế bào T hoạt động
|
CD166
|
Tế
bào gốc trung mô (từ mô mỡ, da quy đầu), tế bào B và T hoạt động, tế bào biểu
mô tuyến ức
|
Tiềm
năng biệt hóa của MSC
MSC có nguồn gốc từ lá phôi giữa, có khả năng biệt hóa
thành các tế bào thuộc mô liên kết như mỡ, cơ, xương, sụn,… (đây cũng chính là
một trong những tiêu chuẩn để xách định MSC). Ngoài ra, thực nghiệm đã chứng
minh MSC có thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác có nguồn gốc từ cả ba lá
phôi như tế bào thần kinh, gan, thận,… Điều này mang lại triển vọng lớn cho
việc ứng dụng MSC vào y học tái tạo.
Ứng
dụng và các thử nghiệm lâm sàng về MSC
Nhờ khả năng biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau,
MSC được kỳ vọng mở ra cuộc
cách mạng cho y học tái tạo.
Trên mô hình động vật
thí nghiệm (chuột nhắt trắng), MSC đã được chứng minh có khả năng làm giảm sự
tiến triển của nhiều bệnh mạn tính như các bệnh thoái hóa
thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson), các bệnh tự miễn (viên khớp dạng thấp,
tiểu đường typ I), các bệnh tim mạch (nhồi máu cơ tim),…
Ở người, trong khoảng 20 năm trở lại đây, số lượng các
thử nghiệm lâm sàng sử dụng MSC đã tăng vượt bậc. Theo thống kê của Viện Sức
khỏe Quốc gia Hoa Kỳ, đến nay đã có gần 500 thử nghiệm đã đăng ký, nhưng hầu
hết đang ở pha I/II hoặc II/III, chỉ số lượng nhỏ ở giai đoạn III/IV hoặc giai
đoạn IV. Những bệnh được quan tâm nhiều nhất bao gồm các bệnh tim mạch (70 thử
nghiệm), các bệnh tự miễn (45), viêm xương khớp (37), gan (32), rối loạn hô hấp
(21),… Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, tiềm năng của MSC giảm dần theo tuổi
người hiến tế bào và thời gian nuôi cấy, do đó Hiệp hội Quốc tế về Liệu pháp Tế
bào khuyến cáo chỉ nên sử dụng MSC mới tách từ những bệnh nhân trẻ tuổi, không
nên sử dụng tế bào từ người cao tuổi, tế bào đã qua nuôi cấy hoặc bảo quản lạnh
(tế bào đã qua nuôi cấy hoặc bảo quản lạnh sẽ tăng khả năng chuyển thành dạng
ác tính, có khả năng tạo u cao). Nhìn chung, các thử nghiệm trên đã cho thấy
tính an toàn cao của MSC khi sử dụng, đồng thời bệnh nhân phần nào cải thiện
được tình trạng bệnh.
Tình
hình nghiên cứu và ứng dụng MSC ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tế bào gốc đã xuất hiện từ
khá lâu, nhưng chủ yếu tập trung vào tế bào gốc tạo máu. Phải đến khi PGS.TS.
Phan Toàn Thắng phân lập được MSC từ màng dây rốn năm 2004, người ta mới thực
sự quan tâm nhiều về loại tế bào này. Một số nhóm nghiên cứu đã đạt được những
thành công nhất định như Trung tâm Công nghệ Tế bào gốc – ĐHQG Tp.HCM, ĐH Khoa
học Tự nhiên – ĐHQG Hà Nội, Bệnh viện Nhi Trung ương,… Các nhóm này đã phân lập
được MSC từ nhiều nguồn khác nhau (tủy xương, máu cuống rốn, tĩnh mạch dây
rốn,…) với độ tinh khiết cao, đồng thời biệt hóa được MSC thành nhiều dạng tế
bào khác nhau như tế bào tạo xương, cơ tim, tế bào beta tuyến tụy,… Một số đề
tài nghiên cứu ứng dụng của MSC trong điều trị các bệnh tim mạch, thị giác,
tiểu đường,… cũng đã được tiến hành và thu được những kết quả khả quan.
Trong điều trị, năm 2009, Viện Bỏng Quốc gia là nơi đầu
tiên ứng dụng được MSC trong điều trị, với khoảng 300 bệnh nhân mang những vết loét khó lành do hệ quả của bệnh tiểu
đường, sau xạ trị ung thư, điều trị tim mạch được cấy ghép tế bào gốc với tỷ lệ
tái tạo da đạt trên 98%. Năm 2012, Bộ Y tế lần đầu tiên ban hành quy trình kỹ
thuật tách MSC từ mô mỡ tự thân áp dụng tại Bệnh viện Bạch Mai và sử dụng các
tế bào này để điều trị thoái hóa khớp gối. Trong thời gian tới, MSC sẽ tiếp tục
được ứng dụng chữa một số bệnh như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính – COPD (BV Bạch
Mai), tiểu đường (BV Bạch Mai, BV Phạm Ngọc Thạch, tự kỷ, Parkinson (BV
VinMec),… Điều này sẽ tạo tiền đề để hi vọng chữa khỏi nhiều bệnh nan y khác,
đồng thời mở ra kỷ nguyên mới cho lĩnh vực y học tái tạo tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Lv FJ, Tuan RS, et al. (2014). Concise Review: The
Surface Markers and Identity of Human Mesenchymal Stem Cells. Stem Cells 32(6):1408-1419.
2. Jin HJ, Bae YK, et al. (2013). Comparative analysis of
human mesenchymal stem cells from bone marrow, adipose tissue, and umbilical
cord blood as sources of cell therapy. International
Journal of Molecular Sciences 14(9):17986-8001.
3. Gao F, Chiu SM, et al. (2016). Mesenchymal stem cells
and immunomodulation: current status and future prospects. Cell Death and Disease (2016) 7, e2062.
4. Ullah I, Subbarao RB, Rho GJ (2015). Human
mesenchymal stem cells - current trends and future prospective. Bioscience Reports 35(2). pii:
e00191.
5. Bianco P, Cao X, et
al. (2013). The meaning, the sense and the significance: translating the
science of mesenchymal stem cells into medicine. Nature Medicine 19, 35–42.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn