Bệnh nhân Nguyễn Thị B. 36 tuổi.
Tháng 11 năm 2009, bệnh nhân bị đau đầu, chóng mặt, buồn nôn đi loạng choạng. Sau đó bệnh nhân được đưa đi khám tại một bệnh viện ở Hà Nội. Bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não và phát hiện thấy một khối u có kích thước lớn khoảng 3 cm ở tiểu não (Hình 1).
Thời điểm này, bệnh nhân đang mang thai tuần thứ 24.
Bệnh nhân được chuyển đến Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu ( TT YHHN UB) Bệnh viện Bạch Mai. Tại đây các bác sỹ chẩn đoán sơ bộ là ung thư di căn não chưa rõ tổn thương nguyên phát. Do bệnh nhân đang có thai nên không thể chụp X quang, cắt lớp vi tính và chẩn đoán bằng Y học hạt nhân để xác định nguyên nhân vì có thể ảnh hưởng tới thai nhi.
Do có nguyện vọng sinh con nên bệnh nhân được chuyển đi phẫu thuật lấy u não tại Bệnh viện Việt Đức. Sau phẫu thuật bệnh nhân đỡ các triệu chứng đau đầu chóng mặt, không liệt. Bệnh nhân tiếp tục được theo dõi thai sản tại bệnh viện tuyến dưới.
Tháng 2 năm 2010, bệnh nhân sinh con, đẻ thường, nặng 3,1 kg, các biểu hiện tinh thần kinh của cháu bé bình thường.
Sau khi bệnh nhân sinh con được một tháng, bệnh nhân trở lại TT YHHN UB, bệnh viện Bạch Mai. Lúc này, bệnh nhân đã xuất hiện các triệu chứng đau đầu, buồn nôn, chóng mặt trở lại đồng thời bệnh nhân có ho và đau tức bên ngực trái. Bệnh nhân đã được chụp CT lồng ngực, MRI sọ não, xạ hình xương toàn thân. Kết quả cho thấy (Hình 2):
Hình 2: Trước điều trị tia xạ và hóa chất: Tổn thương não nhiều khối (hình A và B). U phổi kích thước 3cm.
CT lồng ngực: U phổi phải, kích thước 3 cm, di căn hạch trung thất.
MRI sọ não: U não di căn nhiều ổ, phù não nhiều.
Xạ hình xương toàn thân; chưa có di căn xương.
Chọc sinh thiết u phổi xuyên thành ngực: Kết quả giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến.
Chẩn đoán xác định của bệnh nhân là Ung thư phổi di căn não.
Bệnh nhân đã được điều trị xạ trị gia tốc toàn não và hóa chất toàn thân (trước khi làm các chẩn đoán và trước điều trị bệnh nhân đã cai sữa).
Sau hai tháng điều trị, bệnh nhân đã được chụp CT lồng ngực và MRI sọ não, kết quả cho thấy: u não nhỏ đi và nhiều khối tan biến, u phổi kiểm soát được tại chỗ (Hình 3).
Từ đó đến nay, bệnh nhân đã được truyền hoá chất 7 chu kỳ. Hiện tại sức khoẻ bệnh nhân vẫn tốt, tự phục vụ được cá nhân và đặc biệt quan trọng là em bé mặc dù nuôi bộ nhưng vẫn phát triển khỏe mạnh như những trẻ bình thường.
Trên đây là một trường hợp bệnh nhân rất đặc biệt: bệnh nhân dang mang thai bị ung thư phổi di căn nhiều ổ ở não. Việc làm các xét nghiệm chẩn đoán và điều trị phải được cân nhắc. Làm sao vừa chữa bệnh được cho mẹ mà vẫn an toàn cho thai nhi. Do đó, bệnh nhân đã không được làm các xét nghiệm chẩn đoán và áp dụng các phương pháp điều trị liên quan đến tia xạ và hóa chất. Trong trường hợp này, phẫu thuật lấy u não là phương pháp điều trị an toàn nhất cho thai nhi.
PGS.TS Mai Trọng Khoa, ThS.BS Đoàn Xuân Trường
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai