Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đã ra đời nhiều thiết bị hiện đại giúp ích rất nhiều trong việc chẩn đoán ung thư sớm và chính xác như chụp CT, cộng hưởng từ…, trong đó có các kỹ thuật y học hạt nhân như SPECT, SPECT/CT, PET, PET/CT. PET/CT… đang được sử dụng trong các lĩnh vực: tim mạch, thần kinh và đặc biệt là trong ung thư.
Kỹ thuật PET (positron emission tomography: ghi hình bằng bức xạ positron) - là kỹ thuật ghi hình theo nguyên tắc chuyển hóa, ở mức độ tế bào, mức độ phân tử. So với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác thì PET có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn. PET giúp ghi hình được khối u một cách khá đặc hiệu với cả thông tin về chuyền hóa và hình ảnh giải phẫu của khối u ở giai đoạn rất sớm so với một số kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh khác. Kết hợp máy PET với máy CT trong cùng một hệ thống, khi chụp hình bệnh nhân đồng thời vừa được chụp CT vừa được chụp PET. Ta thu được hình ảnh CT (hình ảnh cấu trúc rõ và sắc nét) và hình ảnh của PET (hình ảnh chức năng và chuyển hóa ở giai đoạn rất sớm) sẽ cho những thông tin rất có giá trị với độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác cao.
| |
Hình 1. Sơ đồ cấu tạo của máy PET/CT | Máy PET/CT tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai |
Hình ảnh CT, PET và hình chồng ghép PET/CT ở mặt phẳng cắt ngang.
Hình 2. Hình ảnh chụp PET/CT toàn thân của một bệnh nhân Ung thư phổi chụp tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai (mũi tên đỏ chỉ khối u thùy trên phổi phải).
Chỉ định của PET/CT trong ung thư là giúp: chẩn đoán ung thư sớm, phân loại giai đoạn ung thư, phát hiện và đánh giá tái phát, di căn ung thư, đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị ung thư và đặc biệt gần đây nhất là giúp lập kế hoạch xạ trị trên hình PET/CT.
Điều trị ung thư có hai nhóm phương pháp cơ bản là: điều trị tại chỗ (bao gồm phẫu thuật và xạ trị) và điều trị toàn thân (bằng hóa chất, thuốc nội tiết, điều trị miễn dịch,…). Có nhiều thiết bị kỹ thuật xạ trị được sử dụng tại nước ta như: máy xạ trị Coban-60, máy gia tốc tuyến tính (LINAC-linear accelerator),… Từ tháng 7 năm 2008 tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai đã bắt đầu đưa hệ thống máy xạ trị LINAC – CT SIM (máy xạ trị gia tốc tuyến tính gắn với CT mô phỏng và phần mềm lập kế hoạch điều trị Prowess Panther vào sử dụng để điều trị các bệnh nhân ung thư. Máy gia tốc tuyến tính có ưu điểm lớn là có nhiều mức năng lượng với các chùm tia có khả năng đâm xuyên khác nhau nên thích hợp với từng vị trí tổn thương; việc lập kế hoạch được lập trên hình ảnh CT với độ phân giải cao, có thể đánh giá chính xác tổn thương và các cơ quan xung quanh theo không gian ba chiều (3D-CRT - three dimentional conformal radiation), ngoài ra có thể áp dụng kỹ thuật xạ trị điều biến liều (IRMT-intensity modulated radiation therapy) – một trong những kỹ thuật xạ trị hiện đại nhất hiện nay – chia các trường chiếu (beams) ở nhiều góc độ khác nhau thành nhiều phân đoạn (segments) hình chữ nhật với các trọng số khác nhau (weights) nhằm tối ưu hóa liều cao nhất theo hình dạng khối u và liều cho phép giới hạn ở tổ chức lành. Do vậy cho phép tập trung liều bức xạ cao nhất vào tổn thương (khối u, hạch) và thấp nhất vào tổ chức lành xung quanh (cơ quan cần bảo vệ) nhằm đạt hiệu quả điều trị cao nhất và hạn chế tối đa các biến chứng do xạ trị.
Trong quá trình lập kế hoạch điều trị vấn đề quan trọng nhất là xác định được thể tích khối u thô - GTV (gross tumor volume), thể tích đích lâm sàng - CTV (clinical target volume) và thể tích đích điều trị - PTV (planning target volume). Trước đây khi chưa có kỹ thuật PET, xác định GTV, CTV dựa trên hình ảnh CT hoặc MRI. Từ khi PET ra đời, xuất hiện thêm khái niệm mới là thể tích đích sinh học - BTV (biologic target volume) hay GTV-PET. GTVCT và GTVMRI là thể tích khối u thô mà các nhà lâm sàng phân biệt bằng mắt thường, thường không chính xác vì giữa mô lành và tổ chức ung thư không có ranh giới rõ ràng. Còn BTV hay GTVPET là hình ảnh khối u ở mức độ chuyển hóa nghĩa là toàn bộ thể tích các tế bào ung thư tăng chuyển hóa gồm cả những vùng chưa thấy biến đổi về cấu trúc trên CT, nên chính xác hơn rất nhiều; ngoài ra BTV còn đưa ra mật độ tế bào ung thư trong thể tích điều trị (dựa vào độ tập trung hoạt độ phóng xạ đo bằng giá trị max SUV – maximum standardized uptake value – độ hấp thu chuẩn cực đại) giúp việc lập kế hoạch IMRT sẽ phân liều cao theo mật độ tế bào u trong khối u.
Tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai từ đầu tháng 8 năm 2009 máy PET/CT đi vào hoạt động, phục vụ chẩn đoán cho hàng trăm bệnh nhân. Chúng tôi ghi hình PET/CT toàn thân bằng dược chất FDG (F-18 gắn với glucose).
Từ tháng 12 năm 2009 lần đầu tiên tại Việt Nam, tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, đã tiến hành kết nối hệ thống LINAC-PET/CT và phần mềm Prowess Panther để lập kế hoạch xạ trị cho bệnh nhân ung thư trên hình ảnh PET/CT. Các bệnh nhân được tiến hành chụp PET/CT mô phỏng, sau đó hình ảnh được chuyển sang máy lập kế hoạch xạ trị trong hệ thống LINAC. Các bác sỹ xạ trị xác định BTV, CTV và PTV, sau đó lập kế hoạch xạ trị 3D thông thường hoặc tốt hơn nữa là IRMT. Cho đến nay có 21 bệnh nhân với các loại ung thư khác nhau được lập kế hoạch xạ trị với PET/CT bao gồm: ung thư đầu mặt cổ (sàng hàm, vòm, amydal, thanh quản hạ họng) (6 BN), ung thư phổi (12 BN), ung thư thực quản (1 BN), ung thư trực tràng (2BN).
Sau đây là một số ca lâm sàng đã được dùng hình ảnh PET/CT để lập kế hoạch xạ trị với máy gia tốc tuyến tính LINAC tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai.
Mai Trọng Khoa, Vũ Hữu Khiêm, Phạm Cẩm Phương,
Phạm Văn Thái, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Quang Hùng,
Vương Ngọc Dương, Nguyễn Thị The, Trần Hải Bình.