GS.TS. Mai Trọng Khoa, ThS. BS. Vương Ngọc Dương
Trung tâm Y học hạt nhân & Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc chuẩn ung thư đại trực tràng (UTĐTT) theo tuổi là 7,5/100000 dân, đứng hàng thứ năm trong các bệnh ung thư của cả 2 giới. Nguyên nhân gây bệnh UTĐTT chưa rõ. Các yếu tố nguy cơ là: chế độ ăn ít rau, nhiều chất béo, mắc các bệnh lý đại- trực tràng: viêm loét mạn tính, polyp, bệnh Crohn, bệnh đa polyp đại trực tràng...Trong các loại ung thư đường tiêu hoá, thì ung thư đại trực tràng là loại ung thư có liên quan chặt chẽ với các yếu tố nguy cơ gây bệnh cũng như các yếu tố di truyền. Bệnh nếu được chẩn đoán sớm thì tiên lượng tốt, có thể khỏi bệnh hoàn toàn, do vậy việc sàng lọc, chẩn đoán sớm đóng vai trò quan trọng. Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng. Phương pháp điều trị chủ yếu là phẫu thuật. Hóa chất và xạ trị là biện pháp điều trị bổ trợ, triệu chứng. Điều trị đích bệnh ung thư đại trực tràng thường được chỉ định khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, đã có di căn xa.
Điều trị đích trong bệnh UTĐTT đã được áp dụng tại Việt nam khoảng 10 năm nay. Việc sử dụng kháng thể đơn dòng (Bevacizumab, Cetuximab…) kết hợp với hóa trị cho các bệnh nhân UTĐTT giai đoạn di căn (bước 1, bước 2) đã giúp tăng thời gian sống thêm và chất lượng sống cho người bệnh.
Sau đây chúng tôi xin giới thiệu 1 trường hợp bệnh nhân ung thư đại tràng sigma xâm lấn bàng quang và di căn gan đã được điều trị hiệu quả bằng hóa trị kết hợp với kháng thể đơn dòng và xạ trị
Bệnh nhân: Trần Thị X.; nữ 67 tuổi. Địa chỉ: Quảng Ninh.
+ Ngày vào viện: Tháng 7/2014.
+ Lí do vào viện: Tiểu buốt, tiểu nhiều lần.
Bệnh sử: Bệnh diễn biến 2 tháng nay, bệnh nhân có triệu chứng đi tiểu buốt, tiểu nhiều lần về đêm tăng dần, đã đi khám chuyên khoa tiết niệu, điều trị kháng sinh nhưng không đỡ, các triệu chứng tăng dần kèm theo đi tiểu ra máu. Bệnh nhân đến khám tại khoa Ngoại bệnh viện Bạch Mai và được chẩn đoán u bàng quang lan rộng, không còn chỉ định phẫu thuật. Bệnh nhân được chuyển đến trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu trong tình trạng yếu, suy kiệt, rối loạn tiểu tiện nặng, không rối loạn đại tiện.
Tiền sử bệnh nhân: Đái tháo đường đang điều trị thuốc Glucophase 1000mg/ngày.
Tiền sử gia đình khỏe mạnh.
Khám lúc vào viện:
- Bệnh nhân tỉnh.
- Tiếp xúc tốt, suy nhược.
- Thể trạng chung kém, điểm thể trạng chung là 2 điểm.
- Da xanh, niêm mạc nhợt.
- Mạch:90 lần/phút.
- Huyết áp: 110/70 mmHg.
- Phổi: Rì rào phế nang rõ, không rales.
- Bụng mềm, gan lách không sờ thấy.
- Chiều cao: 158cm, cân nặng: 51kg.
- Vùng hạ vị có khối kích thước 8x6cm chắc, ấn đau.
- Các cơ quan, bộ phận khác: Chưa phát hiện bất thường.
Xét nghiệm cận lâm sàng:
- Công thức máu: Thiếu máu với hồng cầu: 3,3T/L, Hemoglobin:94g/l, Bạch cầu: 14,7G/L, Bạch cầu trung tính:10,7G/L, Tiểu cầu: 251G/L.
- Chức năng gan thận trong giới hạn bình thường: Ure:9,1mmol/l, Creatinin: 105µmol/l, Glucose: 7,8mmol/l, AST: 36UI/L, ALT: 31UI/L.
- Chỉ điểm khối u trong máu: CEA: 364 ng/ml (tăng cao), CA 19-9: 11,1ng/ml, AlphaFP: 2,1 ng/ml, các chấy chỉ điểm khối u khác trong giới hạn bình thường.
Chẩn đoán hình ảnh:
Hình 1: Hình chụp CT scannervùng tiểu khung cho thấy hình ảnh u xấm lấn chiếm hết bàng quang kích thước 9x10cm, ngấm thuốc mạnh
Do vậy bệnh nhân được soi bàng quang; Kết quả trong bàng quang đọng ít dịch đục, thành sau bàng quang có khối sùi loét kích thước 4x5cm, rải rác khắp bàng quang là các khối tổn thương sùi nhỏ, sinh thiết u, giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến di căn.
Do có chất chỉ điểm khối u CEA rất cao, mặc dù không có các triệu chứng về tiêu hóa, nên chúng tôi cho bệnh nhân nội soi đại trực tràng (với kết quả đại tràng sigma có tổn thương loét thâm nhiễm theo hình 2),sinh thiết u làm giải phẫu bệnh với kết quả là ung thư biểu mô tuyến.
Hình 2: Hình ảnh nội soi đại trực tràng cho thấy có u sùi loét chiếm hết chu vi đại tràng sigma, dễ chảy máu.
Chụp PET/CT
Hình 3, 4: Hình ảnh chụp PET/CT toàn thân tổn thương vùng bàng quang, đại tràng sigma kích thước 8,7x9,7cm tăng hấp thu F-18 FDG, max SUV là 24, di căn gan phân thùy VII kích thước 2,4x2,9cm
Chẩn đoán xác định:
- Ung thư đại tràng sigma xâm lấn bàng quang, di căn gan.
- Giai đoạn: T4NxM1, giai đoạn IV.
- Mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến.
Điều trị:
Bệnh nhân được điều trị hóa trị: Xạ trị triệu chứng 30Gy/10 buổi vào u đại tràng - bàng quang kết hợp với hóa chất phác đồ XELOX + Bevacizumab (Avastin).
Sau điều trị 1 tháng bệnh nhân giảm số lần tiểu đêm, ngủ tốt hơn, tăng 1kg, CEA giảm xuống 252ng/ml.
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân ổn định, các triệu chứng cải thiện dần sau từng chu kỳ điều trị.
Sau điều trị 6 chu kì phác đồ XELOX + Avastin bệnh nhân không rối loạn tiêu hóa, đã tăng 5kg, ăn ngủ tốt hơn trước không tiểu buốt, đêm dậy 2 lần đi tiểu.
Thăm khám lâm sàng:
- Bệnh nhân tỉnh.
- Tiếp xúc tốt.
- Mạch: 83 lần/phút.
- Huyết áp: 120/70mmHg.
- Phổi thông khí tốt, không rales.
- Bụng mềm, sẹo đường trắng giữa trên rốn, gan lách không sờ thấy.
- Các cơ quan, bộ phận khác chưa phát hiện bất thường.
Xét nghiệm cận lâm sàng:
- Chỉ điểm khối u trong máu: CEA: 152ng/ml (giảm so với trước điều trị).
Chụp CT scanner; khối u bàng quang thu nhỏ kích thước 4x5cm
Bệnh nhân được điều trị duy trì bằng thuốc hóa chất viên Capecitabine và Bevacizumab. Sau 10 tháng, chúng tôi đánh giá lại bệnh bằng chụp PET/CT.
Hình 5, 6: Hình ảnh chụp PET/CT sau 10 tháng điều trị cho thấy khối u bàng quang thu nhỏ kích thước còn 3,6x3,4cm, tăng hấp thu FDG, max SUV 13,1. Tổn thương di căn gan ổn định kích thước
Với kết quả ban đầu có thể tóm tắt theo bảng sau
Trước điều trị | Sau 10 tháng |
Rối loạn tiểu tiện nặng, tiểu máu | Tiểu dêm 2 lần, nước tiểu trong |
Suy sụp tinh thần, gầy sút cân, thiếu máu | Tinh thần tốt, tăng 5kg, hết thiếu máu |
CEA 364ng/ml | CEA 152ng/ml |
PET/CT: u xâm lấn bàng quang, lan rộng, di căn gan | PET/CT: u thu nhỏ nhiều |
Với kết quả bước đầu như trên chúng tôi hy vọng bệnh nhân sẽ đạt được ổn định bệnh lâu dài với sự kết hợp hợp lý của các phương pháp xạ trị hóa trị, kháng thể đơn dòng, chăm sóc nội khoa.
http://ungthubachmai.com.vn