ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ DI CĂN BẰNG THUỐC NỘI TIẾT

Ngày đăng: 25/07/2016 Lượt xem 2991

GS.TS. Mai Trọng Khoa, Ths. Bs. Ngô Trường Sơn
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai

Nội tiết tố estrogen có vai trò trung tâm trong việc phát triển, duy trì và điều hòa các chức năng sinh dục nữ thông qua tác động vào chu kỳ tế bào, bao gồm quá trình tăng sinh, duy trì và phát triển của tế bào. Những tác động này được điều hòa qua trung gian thụ thể nhân tế bào của Estrogen (Estrogen Receptor - ER). Theo thống kê trong tổng số bệnh nhân bị ung thư vú, có tới hơn 70% bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính (ER+) và liệu pháp nội tiết tác động vào hoạt động của Estrogen đã trở thành nền tảng trong điều trị ung thư vú trong hơn một thế kỷ qua.

Liệu pháp hormon (còn gọi là liệu pháp nội tiết, điều trị nội tiết) là phương pháp điều trị với mục đích làm chậm hoặc ngừng sự tăng trưởng của các khối u nhạy cảm nội tiết. Những khối u mà không nhạy cảm với hormone thì không đáp ứng với điều trị nội tiết. Liệu pháp nội tiết là một phương pháp điều trị hiệu quả, dung nạp tốt và cải thiện sống thêm tương đương với hóa trị liệu, do đó được khuyến cáo trong điều trị ban đầu của ung thư vú di căn có thụ thể nội tiết dương tính, ngoại trừ ở những bệnh nhân có bệnh tiến triển nhanh, lúc đó hóa trị là cần thiết. Hiện tại, có nhiều lựa chọn liệu pháp nội tiết bước một và bước sau ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh bị ung thư vú di căn.

Trong số những phương pháp điều trị nội tiết thì Fulvestrant(Faslodex®) là một lựa chọn điều trị mới trong các liệu pháp nội tiết cho bệnh nhân ung thư vú. Với cơ chế là một chất kháng Estrogen thuần nhất, không có hoạt động đồng vận, ngăn chặn Estrogen gắn với thụ thể, đồng thời, thuốc cũng có cơ chế tác động khác biệt gây ra sự thay đổi hình dạng của thụ thể, dẫn đến thoái giáng thụ thể, giảm nồng độ ER trong tế bào, từ đó Fulvestrant bất hoạt hoàn toàn hoạt động phiên mã của thụ thể nội tiết. Fulvestrant (Faslodex®) cho đến thời điểm hiện nay được chỉ định cho phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú tiến triển tại chỗ hoặc di căn có thụ thể nội tiết dương tính, tái phát trong hoặc sau điều trị kháng Estrogen bổ trợ, hoặc tiến triển khi đang điều trị kháng Estrogen.

Qua các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, phác đồ Fulvestrant 250mg có hiệu quả tương đương phác đồ ức chế Aromatase. Qua nghiên cứu CONFIRM, liều Fulvestrant 500 mg hàng tháng có hiệu quả kéo dài thời gian sống bệnh không tiến triển so với liều 250mg hàng tháng ở phụ nữ mãn kinh bị ung thư vú giai đoạn tiến triển có thụ thể nội tiết dương tính. Về mặt an toàn, điều trị Fulvestrant không gây thêm bất kỳ tác dụng phụ đáng kể về mặt lâm sàng như dày nội mạc tử cung, loãng xương... Hơn nữa, tỷ lệ mắc các rối loạn tại khớp thấp hơn đáng kể khi sử dụng Fulvestrant 250mg hàng tháng so với Anastrozole. Fulvestrant 500mg thường được dung nạp tốt và không có tác dụng phụ thêm so với phác đồ liều 250mg. Một số tác dụng ngoại ý của Fulvestrant 500mg có liên quan đến tác dụng đối kháng estrogen bao gồm rối loạn tiêu hóa, nhiễm trùng đường tiết niệu và phản ứng tại vị trí tiêm. Liều lượng hiện nay được phê duyệt của Fulvestrant là 500mg, là một liệu pháp nội tiết bước hai có hiệu quả và dung nạp tốt trên phụ nữ mãn kinh bị ung thư vú tiến triển hoặc di căn có thụ thể nội tiết dương tính.

Dưới đây là một ca lâm sàng ung thư vú di căn đã được điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai:

Năm 2005, bệnh nhân Phạm Thị G, nữ, 70 tuổi, được chẩn đoán ung thư vú bên phải, giai đoạn T4aN1M0, (mô bệnh học: ung thư biểu mô thể ống xâm nhập); thụ thể nội tiết ER (Estrogen Receptor) và PR (Progesterone Receptor) dương tính, Her 2/neu âm tính.

Bệnh nhân đã được phẫu thuật Patey vú phải, Hóa trị, Xạ trị và điều trị thuốcnội tiết tại một Bệnh viện chuyên khoa. Theo dõi sau 7 năm đến tháng 2/2013, bệnh nhân xuất hiện đau lưng, ăn uống kém, người mệt mỏi. Bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Bạch Mai.

Khám lúc vào viện: Bệnh nhân thể trạng gầy, cao 1m54, nặng 45 kg. Da, niêm mạc bình thường. Tuyến giáp không to, hạch ngoại biên không sờ thấy. Vú bên phải đã phẫu thuật cắt toàn bộ, vú bên trái không sờ thấy u, sẹo mổ trước ngực bên phải co kéo. Tim nhịp đều, T1 T2 rõ, không nghe thấy tiếng thổi. Phổi rì rào phế nang rõ, không rales. Bụng mềm, gan lách không sờ thấy. Tay chân vận động yếu. Cơ quan khác: bình thường.

Xét nghiệm cận lâm sàng:

Công thức máu: Hồng cầu: 4,2T/L, Huyết sắc tố: 120g/l, Tiểu cầu: 228G/L, Bạch cầu: 4,13G/L. Kết quả trong giới hạn bình thường.

Sinh hóa máu: Ure: 3,0mmol/l, Glucose: 7,3mmol/l, Creatinin: 68umol/l, GOT: 15U/l, GPT: 18U/L. Chất chỉ điểm khối u tăng: CA15-3: 150,5U/ml.

Điện tâm đồ: Bình thường. Siêu âm bụng: bình thường.

Xạ hình xương: Tổn thương di căn xương đa ổ. 

\

 (Hình ảnh đã được sự đồng ý của bệnh nhân

Tại thời điểm bệnh nhân vào Bệnh viện Bạch Mai được chẩn đoán là ung thư vú bên phải tái phát di căn xương sau phẫu thuật Patey, Hóa chất, Xạ trị và điều trị Nội tiết. 

Bệnh nhân được hội chẩn và được chỉ định điều trị đơn hóa trị duy trì với Docetaxel: 75mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ 21 ngày, thuốc chống hủy xương: Zometa: 4mg/tháng, truyền tĩnh mạch chu kỳ 28 ngày. Theo dõi khám sau điều trị bệnh nhân thể trạng tốt hơn, đỡ đau lưng, ăn uống sinh hoạt bình thường. Bệnh nhân được làm xét nghiệm công thức máu, sinh hóa, chất chỉ điểm khối u CA15-3, siêu âm, chụp x-quang tim phổi hàng tháng. 

Sau 12 tháng bệnh nhân đau cột sống tăng lên, bệnh tái phát, chuyển phác đồ Capecitabine đơn chất (Xeloda: 1250mg/m2,uống 2 lần chia 2 lần trong ngày, uống ngày 1-14, chu kỳ 21 ngày). Sau 9 tháng bệnh nhân xuất hiện đau cột sống trở lại, xuất hiện tác dụng phụ hội chứng bàn tay- chân, chỉ số CA15-3 tăng (180U/ml), Bệnh nhân được chuyển phác đồ điều trị Vinorelbine đơn chất (Navelbine: 60mg/m2, uống hàng tuần. Sau 6 tháng Bệnh nhân đau cột sống trở lại, CA15-3 tăng (168U/ml). 

Sau đó bệnh nhân được chỉ định điều trị nội tiết Faslodex: 500mg, tiêm bắp sâu, ngày 1, 14, 28 và tiếp tục hàng tháng cho tới thời điểm hiện nay. 

Các chỉ số xét nghiệm công thức máu, sinh hóa, nước tiểu: bình thường. Chất chỉ điểm khối u trong máu CA 15-3 giảm dần. Bệnh nhân đỡ đau vùng tổn thương di căn xương. Đây là một trong số những bệnh nhân ung thư vú tái phát, di căn đạt được đáp ứng và kéo dài thời gian sống thêm, nâng cao chất lượng sống tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.

http://ungthubachmai.com.vn

Tin liên quan