GS. TS. Mai Trọng Khoa, Ths.Bs.Nguyễn Xuân Thanh
Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai
Ung thư phổi nguyên phát là bệnh lý ác tính rất phổ biến với xu hướng ngày càng gia tăng về tỉ lệ mắc. Cho đến nay, ung thư phổi vẫn là bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ tử vong cao.
Việc sử dụng hóa chất trong điều trị ung thư phổi đã được áp dụng từ năm 1945 cho đến nay. Trong vài năm gần đây, việc sử dụng các thuốc hóa chất truyền thống gần như đã đạt đến mức giới hạn, chưa thực sự có nhiều thuốc hóa trị mới. Vả lại, việc sử dụng hóa chất thường bị hạn chế bởi độc tính và các tác dụng phụ không mong muốn.
Gần đây, nhiều thuốc điều trị đích (nhắm trúng đích) mới đã được áp dụng trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Những thuốc điều trị đích này có hai nhóm lớn đó là các kháng thể đơn dòng và các phân tử nhỏ. Với những tiến bộ của nền y học, việc tổng hợp và điều chế các thuốc trúng đích trong điều trị ung thư phổi ngày càng mang lại nhiều hy vọng, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân ung thư phổi.
Sau đây là một trường hợp ung thư phổi được điều trị hiệu quả bằng sử dụng thuốc trúng đích tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai:
Bệnh nhân: Bùi Văn T…59 tuổi. Quê quán: Hà Nội
Ngày vào viện: 10/03/2014.
Lý do vào viện: ho khan
Bệnh sử: Vài tuần nay, bệnh nhân thấy ho khan, ho húng hắng, kèm theo mệt mỏi mức độ vừa. Ngoài ra, bệnh nhân không khó thở, không đau ngực, không sốt, mọi sinh hoạt vẫn gần như bình thường. Bệnh nhân tự đi khám và được chụp phim XQ kiểm tra: kết quả là ở phổi trái có nốt nghi ngờ. Chụp CT lồng ngực có nốt mờ thùy dưới vùng ngoại vi phổi trái. Qua tìm hiểu, gia đình đưa bệnh nhân đến Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu - bệnh viện Bạch Mai để khám và điều trị.
Khám lâm sàng:
+ Ho thúng thắng không có đờm, không khó thở, không sốt.
+ Nghe phổi: rì rào phế nang hai bên rõ, không có ral, không thấy có dấu hiệu tràn dịch, tràn khí màng phổi.
+ Các cơ quan bộ phận khác chưa thấy dấu hiệu bất thường.
Cận lâm sàng:
- Công thức máu: Hồng cầu: 4,1T/L; Huyết sắc tố: 134G/L; Tiểu cầu: 248G/L; Bạch cầu: 7,4 G/L (N:5,3 G/L).
- Sinh hóa máu: chức năng gan thận bình thường, CEA=16 ng/ml.
Chẩn đoán hình ảnh:
Chụp CT ngực: khối u thùy dưới phổi trái kích thước 2,1x1,8x1,9cm
Bệnh nhân được tiến hành sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CT, cho kết quả: Ung thư biểu mô tuyến, xét nghiệm đột biến gen EGFR (+).
KẾT QUẢ CHỤP PET/CT
Khối thùy dưới phổi trái, kích thước: 2,2x1,8cm. SUV=5,6, di căn hạch rốn phổi trái kích thước 1,8cm SUV=4,8.
Chẩn đoán xác định: K biểu mô tuyến phổi trái, di căn hạch rốn phổi trái, T1N1Mo, EGFR (+)
Hướng điều trị:
Bệnh nhân đã được các bác sỹ Trung tâm y học hạt nhân và Ung bướu hướng dẫn và giải thích các bước điều trị, nhưng gia đình chỉ xin được điều trị hóa trị 3 đợt. hóa chất được sử dụng cho bệnh nhân:
. DOCETACEL 75mg/m2
- CARBOPLATIN 300mg/m2
- Chu kỳ mỗi 21 ngày
Tình trạng bệnh nhân sau 3 chu kỳ hóa trị
- Tỉnh táo, mệt mỏi, không đau, không sốt, không khó thở
- Chất chỉ điểm khối u tăng: CEA: 21 ng/ml
- Các xét nghiệm khác trong giới hạn bình thường
Hình ảnh chụp PET/CT lần 2 sau 3 chu kỳ hóa trị: sau 3 chu kỳ hóa trị: Hình ảnh tái phát nhiều hạch trung thất, kích thước từ 1,5-2,2cm, SUV=7.9.
Bùi Văn T.. 59, sau 3 chu kỳ hóa trị: Hình ảnh tái phát nhiều hạch trung thất, kích thước từ 1,5-2,2cm, SUV=7.9.
Đánh giá sau điều trị đợt 1:
Tình trạng bệnh nhân có tái phát nhiều hạch trung thất sau 3 chu kỳ hóa trị, bệnh không đáp ứng với điều trị.
Chỉ định tiếp theo của bác sĩ:
Điều trị hóa xạ trị đồng thời kết hợp với điều trị trúng đích
- Cụ thể:
+ Hóa trị PC: Paclitacel 175mg/m2, Carboplatin 300mg/m2 truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ 21 ngày
+ Xạ trị 60gy, phân liều 2gy/ ngày
+ Điều trị đích: Iressa 250mg mỗi viên/ ngày
Đánh giá sau 3 tháng điều trị (xạ trị 60gy, điều trị đích, hóa trị 3 đợt)
Lâm sàng: bệnh nhân tỉnh, không ho, không sốt, không khó thở, tăng cân
Xét nghiệm chất chỉ điểm ung thư: CEA=3,2 ng/ml
Các xét nghiệm khác trong giới hạn bình thường
Chụp PET/CT lần 3: Chỉ còn đám mờ nhỏ trên cửa sổ nhu mô không tăng hấp thu FDG, không thấy hạch trung thất tăng FDG
Bui Van T 59: Chỉ còn đám mờ nhỏ trên cửa sổ nhu mô không tăng hấp thu FDG, không thấy hạch trung thất tăng FDG
So sánh hình ảnh PET/CT sau những lần điều trị
Ban đầu u và hạch rốn phổi trái | Sau lần điều trị thứ 1 tái phát nhiều hạch trung thất | Sau lần điều trị thứ 2 hết u và hạch di căn
|
Trước điều trị: U và hạch rốn phổi trái | Sau lần điều trị thứ 1: Tái phát nhiều hạch trung thất | Sau lần điều trị thứ 2: Hết u và hạch di căn
|
So sánh sau mỗi đợt điều trị:
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ | SAU LẦN ĐIỀU TRỊ THỨ 1 | SAU LẦN ĐIỀU TRỊ THỨ 2 |
Lâm sàng: ho khan | Lâm sàng: mệt mỏi, gầy sút cân | Lâm sàng: không ho, không mệt, tăng cân |
Cận lâm sàng | Cận lâm sàng | Cận lâm sàng |
Chỉ điểm ung thư: CEA=16 u/ml | Chỉ điểm ung thư: CEA=21 ng/ml | Chỉ điểm ung thư: CEA=3,2 ng/ml |
PET/CT | PET/CT | PET/CT |
Hình ảnh u thùy dưới phổi trái, di căn 1 hạch rốn phổi trái. | Hình ảnh tái phát nhiều hạch trung thất tăng FDG mạnh. | Đám mờ vị trí u phổi trái không tăng hấp thu FDG |
Hướng điều trị tiếp theo
- Hóa trị 3 đợt (PACLITACEL 175mg/m2, CARBOPLATIN 300mg/m2), kết hợp với uống IRESSA 250mg/ ngày.
- Hướng dẫn bệnh nhân và người nhà bệnh nhân theo dõi những dấu hiệu bất thường: sụt cân, ho, sốt, khó thở, nổi hạch cổ hay thượng đòn (dấu hiệu ung thư tái phát), đau xương (di căn xương), đau đầu, co giật, yếu ½ người (di căn não).
- Hướng dẫn chế độ ăn uống, sinh hoạt, nghỉ ngơi.
- Theo dõi định kỳ theo lịch.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn