GS. TS. Mai Trọng Khoa, ThS Vương Ngọc Dương.
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai
Mở đầu
Ung
thư tuyến tiền liệt (UTTTL) là khối u ác tính xuất phát từ tế bào biểu
mô của tuyến tiền liệt. UTTTL thường di căn sang các bộ phận khác của cơ
thể, đặc biệt là vào xương và các hạch bạch huyết… UTTTL có thể gây đau
đớn và khó khăn trong việc đi tiểu, quan hệ tình dục, hoặc rối loạn
chức năng cương dương…
Tỷ
lệ phát hiện UTTTL khác nhau đối với các vùng trên toàn thế giới. Theo
Globocan 2012 thì tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt cao nhất ở
Australia, New Zealand, Bắc Mỹ, Đông âu. Theo dữ liệu của Mạng lưới ung
thư quốc gia Mỹ (National Comprehensive Cancer Network, NCCN) năm 2012
có 241.740 trường hợp mới mắc, chiếm 28% tổng số bênh nhân (BN) ung thư
mới mắc ở nam giới và 28.170 BN tử vong. Người Châu Á có tỷ lệ mắc bệnh
thấp hơn: 1-7 / 100,000. Cụ thể là Hong Kong: 2.6, Nhật Bản: 3.8,
Singapore: 4.2, Thụy Điển: 20.4, Thụy Sĩ: 22.5.Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc
bệnh UTTTL ngày càng tăng và tỷ lệ tử vong cũng rất cao. Theo dữ liệu
Globocan 2012, hằng năm ước tính có khoảng 1275 ca mới mắc, nhưng có tới
872 ca tử vong. Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 3,4/100.000 dân, tỷ lệ chế
là 2,4/100.000 dân. UTTTL đứng thứ 10 về tỉ lệ mắc.
Các phương pháp điều trị bệnh UTTTLhiện nay, bao gồm:
- Phẫu thuật (phẫu thuật mở, nội soi), cắt lạnh.
- Nội tiết (cắt bỏ tinh hoàn bằng phẫu thuật hoặc bằng thuốc).
- Hóa chất
- Xạ trị (xạ chiếu ngoài, xạ áp sát).
- Cấy hạt phóng xạ
Tùy
theo phân độ nguy cơ và tình trạng bệnh nhân cụ thể, điều kiện cơ sở
vật chất của bệnh viện mà áp dụng một hoặc phối hợp các phương pháp
trên.
1.Phẫu thuật điều trị ung thư tuyến tiền liệt
Phẫu thuật mở là phương pháp kinh điển cho điều trị ung thư TTL giai đoạn khu trú với nhiều loại hình như
Phẫu thuật ( mở) cắt tuyến tiền liệt tận gốc
Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường đáy chậu
Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường phúc mạc
Phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc qua đường sau phúc mạc
Phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt tận gốc có hỗ trợ của Rô bốt
+ Chỉ định Phẫu thuật trong ung thư tuyến tiền liệt
Căn cứ vào giai đoạn tiến triển của ung thư theo hệ thống TNM
Theo độ ác tính của tế bào ung thư là điểm Gleason
Theo thời gian kỳ vọng sống thêm
Theo tình trạng của các bệnh kèm theo của người cao tuổi
Tuy
nhiên phẫu thuật ung thư tiền liệt tuyến là kỹ thuật phức tạp và có thể
có một số biến chứng trong phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt như
Thủng trực tràng
Viêm phúc mạc do rò phân, rò nước tiểu vào ổ bụng
Liệt dương
Tiểu không kiểm soát
Hẹp cổ bàng quang
Tụ dịch bạch huyết, thuyên tắc tĩnh mạch….
2.Phương pháp xạ trị
Là
phương pháp dùng tia bức xạ chiếu từ ngoài vào vùng bệnh hoặc nguy cơ
bị bệnh ,xạ trị là biện pháp điều trị tại vùng có thể điều trị với mục
đích triệt căn hoặc triệu chứng, áp dụng điều trị tùy thuộc giai đoạn
bệnh, nhóm nguy cơ, tình trạng bệnh nhân, bệnh phối hợp, thời gian sống
thêm và chức năng tình dục, cũng như nguyện vọng của bệnh nhân. Xạ trị
có thể phối hợp với các phương pháp khác như nội tiết….Các kỹ thuật xạ
trị hiện nay bao gồm;kỹ thuật xạ trị 3D, xạ trị điều biến liều IMRT, xạ
trị dưới hướng dẫn của hình ảnh IGRT, xạ trị điều biến thể tích VMAT góp
phần tăng hiệu quả điều trị hơn.
3.Điều trị nội tiết
Là
phương pháp dùng những thuốc chống lại sự hoạt động của androgen và sự
tăng sinh của tuyến tiền liệt, bao gồm nội tiết tố và và những chất
không phải nội tiết tố. Ung thư tuyến tiền liệt được cho là phát triển
phụ thuộc nội tiết tố nam, do vậy làm giảm hoặc triệt tiêu nội tiết nam
sẽ làm các tế bào ung thư phụ thuộc nội tiết chết
Các
dạng điều trị nội tiết bao gồm; Cắt tinh hoàn bằng ngoại khoa và bằng
nội khoa như các đồng vận LHRH tạo hiện tượng mất hoạt hóa thụ thể LHRH
của tuyến yên. Các chất kháng nội tiết tố nam hoặc ức chế tổng hợp nội
tiết tố
Điều
trị nội tiết được điều trị chính cho ung thư tiền liệt tuyến di căn và
phối hợp với các phương pháp khác ( xạ trị, phẫu thuật) cho các trường
hợp ung thư khu trú có nguy cơ cao và trung bình
Việc
theo dõi nên điều chỉnh cho phù hợp với từng bệnh nhân và đánh giá hiệu
quả cũng như tác dụng phụ khi điều trị nội tiết. cũng có thể áp dụng
phương pháp điều trị nội tiết ngắt quãng để giảm tác dụng phụ tăng chất
lượng sống cho người bệnh
4.Điều trị ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn
Bệnh
nhân khi đang được điều trị bằng các biệt pháp kháng androgen mà có các
biểu hiện bệnh tiến triển (tăng PSA, tiến triển tổn thương cũ, phát
triển tổn thương mới) được xem là kháng cắt tinh hoàn, Cơ chế liên quan
đến tình trạng này có thể do hoạt hóa thụ thể androgen của tế bào u tự
tiết androgen, dựa vào các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm (PSA,
testosterone), hình ảnh để xác định UTTTL kháng cắt tinh hoàn. UTTTL có
diễn tiến kéo dài nên ngay cả các trường hợp kháng cắt tinh hoàn vẫn có
cơ hội sống dài và tốt nhờ chiến lược điều trị đúng. Các thuốc đã được
chấp nhận điều trị như mhoms thuốc nội tiết ( abiraterone,
enzalutamine), thuốc gây độc tế bào ( Docetaxel, Mitoxatron,
Cabazitaxel), thuốc kích thích miễn dịch (Sipuleucel –T), dược chất
phóng xạ radium 233, thuốc chống hủy xương (zoledrolic acid, denosunab)
5Phương pháp cấy hạt phóng xạ
+
Kỹ thuật cấy hạt phóng xạ vào khối u để điều trị ung thư tuyến tiền
liệt, là sự cải tiến của xạ trị áp sát kết hợp với xạ trị chiếu trong đã
được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu áp dụng và đem lại nhiều lợi
ích to lớn cho bệnh nhân. Hiện nay tại các nước phát triển như Hoa Kỳ,
Đức, Nhật Bản, áp dụng cho ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm, khu trú.
Hình
1: Hệ thống máy cấy hạt phóng xạ điều trị ung thư tuyền tiền liệt tại
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.
Cấy
hạt phóng xạ điều trị ung thư TTL là phương pháp xạ trị đưa các hạt
phóng xạ I-125 kích thước nhỏ 4,5x0,8 mm phát tia gamma năng lượng thấp
(35 keV), vào trong tổ chức khối u, có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư
tại chỗ mà không hoặc ảnh hưởng rất ít tới mô lành xung quanh. Bức xạ
gamma mềm của I-125 chỉ phát huy hiệu quả điều trị trong phạm vi vài
milimet (mm) của các mô bệnh và không hoặc rất ít gây tổn thương các mô
lành xung quanh. Ưu điểm nổi bật của kỹ thuật này là tạo ra liều hấp thụ
bức xạ cao tại khối u, trong khi cơ quan và tế bào lành chỉ phải chịu
liều bức xạ rất thấp. Các hạt phóng xạ có thời gian bán rã không quá
ngắn và không quá dài (chẳng hạn với I-125 là 60 ngày) nên có thể để lại
các hạt phóng xạ trong lòng tuyến tiền liệt mà không cần lấy ra sau khi
cấy hạt phóng xạ vào. Dưới hướng dẫn của hình ảnh siêu âm, các kim chứa
hạt phóng xạ này sẽ được đâm xuyên qua da ở vùng tầng sinh môn để đưa
thẳng vào trong lòng của tuyến tiền liệt. Các hạt I-125 sẽ được lưu lại
trong lòng tuyến tiền liệt sau khi kim được rút ra (hình 2).
Hình 2: Cấy hạt phóng xạ I-125 vào tuyến tiền liệt
Ưu điểm của phương pháp cấy hạt phóng xạ là kiểm
soát u tại chỗ cao, thời gian và liệu trình điều trị ngắn, ít biến
chứng, chức năng sinh lý của nam giới (liệt dương) ít hoặc không bị ảnh
hưởng, tăng chất lượng cuộc sống
Cấy
hạt phóng xạ là một phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả, tăng thời
gian sống thêm, tăng chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư tuyến
tiền liệt giai đoạn sớm
Tóm lại:
Ung thư TTL là loại ung thư có xu hướng mắc tăng, bệnh có thể phát hiện
sớm qua sàng lọc. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị, khi phát hiện
sớm điều trị có thể khỏi với chất lượng sống được duy trì tốt
Nguồn: ungthubachmai.com.vn