Ung thư vú di căn có đột biến PIK3CA

Ngày đăng: 15/03/2021 Lượt xem 2483

Ung thư vú di căn có đột biến PIK3CA

                                                                           CN. Vũ Thị Thu Hiền (Lược dịch)

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu

Phân tích kết quả và đặc điểm phân tử của bệnh nhân ung thư vú di căn (MBC) có đột biến PIK3CA từ thử nghiệm SAFIR02 chỉ ra rằng bệnh nhân có khối u HER2 (-)/ HR (+) có đột biến PIK3CA có kết quả xấu và kháng với hóa trị liệu. Bệnh nhân ung thư vú âm tính bộ 3 (TNBC) có đột biến PIK3CA có thời gian sống sót toàn bộ tốt hơn. Kết quả này có thể được giải thích là do tỉ lệ đột biến PIK3CA cao hơn trong ung thư vú luminal mất biểu hiện HR trong môi trường di căn. Kết quả này được công bố online vào ngày 24 tháng 1 năm 2020 trên tạp chí Annals of Oncology.

Các tác giả Prof. Fabrice André của the Gustave Roussy, Villejuif, France đã viết trong tóm tắt nghiên cứu rằng đột biến mắc phải PIK3CA xảy ra khoảng 20-40% ở ung thư vú giai đoạn sớm (EBCs) và tần suất xảy ra nhiều hơn ở ung thư vú có HR (+). Sự tương ứng của đột biến PIK3CA trên lâm sàng đã được đánh giá ở EBC, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng đột biến PIK3CA liên quan tới kết quả tốt ở những bệnh nhân EBC HER2 (-)/ HR (+). Mặc dù dữ liệu đã được báo cáo rộng rãi ở EBC nhưng chưa có nghiên cứu nào tập trung vào đặc điểm phân tử và kết quả lâm sàng của bệnh nhân MBC có đột biến PIK3CA. Hiểu rõ hơn về đặc điểm của quần thể bệnh nhân MBC có đột biến PIK3CA sẽ cho phép ức chế vị trí PI3K tốt hơn trong điều trị và để phát hiện thêm quần thể bệnh nhân mới cho phát triển thuốc mới.

Tổng 649 bệnh nhân MBC trong thử nghiệm SAFIR02 (NCT02299999) với những dữ liệu về đột biến có sẵn được chọn để phân tích kết quả. Đột biến PIK3CA được xác định bằng giải trình tự gen thế hệ mới (NGS) trên các mẫu di căn. Tổng quan về đột biến của MBC có đột biến PIK3CA được phân tích bằng giải trình tự toàn bộ exome trên 617 bệnh nhân. Giá trị tiên lượng của đột biến PIK3CA trong suốt quá trình hóa trị liệu được phân tích trên mẫu huyết tương của 44 bệnh nhân bằng NGS và digital PCR.

Đột biến PIK3CA được phát hiện ở 28% khối u HER2 (-)/ HR (+) và 10% ở TNBC (p<0.001). MBC HER2 (-)/ HR (+) có đột biến PIK3CA ít nhạy cảm với hóa trị liệu (OR: 0,40; p = 0.002) và có OS xấu hơn so với nhóm không có đột biến (OR: 1.44; p = 0.04)

MBC HR (+)/ HER2 (-) có đột biến PIK3CA thường có tần số đột biến MAP3K1 cao hơn (15% so với 5%, p = 0,0005).

Trong ung thư vú bộ ba âm tính (TNBC) di căn, OS trung vị ở bệnh nhân có đột biến PIK3CA là 24 tháng so với 14 tháng bệnh nhân không mang đột biến PIK3CA (p = 0.03). Nhóm nghiên cứu đã xem xét thêm sự phân bố của đột biến PIK3CA trong TNBC di căn theo sự biểu hiện HR ở khối u nguyên phát. Tổng cộng, 6% bệnh nhân không có biểu hiện HR ở khối u nguyên phát và 36% bệnh nhân có khối u nguyên phát dương tính với HR có đột biến PIK3CA (p <0,001).

Mức độ đột biến PIK3CA còn sót lại trong huyết tương sau một đến ba chu kỳ hóa trị có liên quan đến OS xấu (biến liên tục, tỷ lệ nguy cơ: 1.03, p = 0,007).

Các tác giả đã chỉ ra những nhu cầu y tế chưa được đáp ứng ở những bệnh nhân MBC HR (+)/ HER2 (-) có đột biến PIK3CA, do đó cần phải có những loại thuốc mới. Ngoài ra, cần phải khảo sát giá trị tiên đoán của đột biến MAP3K1 và đồng biến đổi PIK3CA đối với độ nhạy với chất ức chế PI3K. Trong TNBC di căn, kết quả nghiên cứu cho thấy cơ hội phát triển chất ức chế PI3K, đặc biệt ở những bệnh nhân có khối u nguyên phát biểu hiện HR.

Tài liệu tham khảo

  1. 1.Mosele F, Stefanovska B, Lusque A, et al. Outcome and molecular landscape of patientsPIK3CA-mutated metastatic breast cancerAnnals of Oncology; Published online 24 January 2020.   https://doi.org/10.1016/j.annonc.2019.11.006
Nguồn: ungthubachmai.com.vn

Tin liên quan