Ngày càng được phát hiện sớm
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ trên thế giới. Mặc dù tỷ lệ mắc ung thư vú trong những năm gần đây có xu hướng tăng lên tại nhiều nước, đặc biệt ở một số nước đang phát triển do lối sống phương Tây hóa, tuy nhiên tỷ lệ tử vong do ung thư vú đang giảm đi nhờ các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm. Đặc biệt trong những năm gần đây, ung thư là bệnh có thể chữa khỏi được nếu phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, người dân biết được cách tự khám vú qua các chương trình hướng dẫn trên phương tiện truyền thông, nhận biết được các dấu hiệu bệnh và đến bệnh viện khám, điều trị kịp thời. Từ đó việc chữa trị đã đạt được nhiều kết quả tốt (với trên 70% bệnh nhân ung thư vú có thể chữa khỏi được). Tuy vậy, phòng để không mắc bệnh ung thư vẫn là cách tốt nhất tránh bị tử vong vì căn bệnh này.
Một số yếu tố nguy cơ gây ung thư vú đã được xác định bao gồm: tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú, ung thư buồng trứng, gen gây ung thư, béo phì, ít vận động, tiền sử sinh sản (như sinh con ít, đẻ con đầu lòng muộn), thuốc lá... Với các yếu tố nguy cơ như trên, việc phòng tránh tốt nhất là giảm tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ nói trên, có chế độ dinh dưỡng hợp lý (tăng cường ăn rau quả, giảm chất béo...), tăng cường hoạt động thể lực, duy trì chế độ luyện tập thể dục đều đặn, giảm nguy cơ béo phì... Các phương pháp phát hiện bệnh sớm bao gồm tự khám vú, chụp X-quang tuyến vú, phụ nữ nên tự khám vú hằng tháng sau khi sạch kinh khoảng 5 ngày, phụ nữ trên 40 tuổi nên khám định kỳ và chụp X-quang tuyến vú mỗi năm 1 lần.
Việc chữa trị ngày càng tốt hơn
Điều trị bệnh ung thư nói chung, bệnh ung thư vú nói riêng đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây, nhiều phương pháp điều trị ung thư vú trên thế giới hiện nay hoàn toàn có thể được áp dụng trong nước. Phối hợp đa phương pháp trong điều trị ung thư bao gồm phẫu thuật, tia xạ, hóa chất, nội tiết và các thuốc điều trị đích. Với các tiến bộ khoa học như hiện nay, các phương pháp điều trị vừa đảm bảo tăng tỷ lệ chữa khỏi bệnh vừa cải thiện được chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư vú. Cụ thể, trước đây phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú kèm theo vét hạch nách cùng bên được coi là phẫu thuật chuẩn trong điều trị ung thư vú. Nay xu hướng phẫu thuật bảo tồn là phẫu thuật lấy rộng u kèm theo vét hạch nách, phẫu thuật sinh thiết hạch cửa giúp làm giảm được số trường hợp vét hạch nách không cần thiết từ đó giảm được các biến chứng do vét hạch nách gây ra (như to tay, yếu tay, giảm cảm giác tay bên vét hạch nách), phẫu thuật tạo hình đã và đang được áp dụng ở nhiều bệnh viện lớn. Điều trị tia xạ cũng có nhiều tiến bộ với những kỹ thuật tia xạ mới ra đời như tia xạ bằng máy gia tốc, tia xạ điều biến liều, tia xạ thu nhỏ trường chiếu (tia xạ một phần). Các kỹ thuật này vừa đạt được độ chính xác cao trong điều trị vừa giảm được các tác dụng không mong muốn do tia xạ gây ra. Điều trị toàn thân cũng đã có nhiều thay đổi, nhiều thuốc hóa chất mới ra đời, các thuốc nội tiết mới, các kháng thể đơn dòng từng bước cải thiện rõ rệt thời gian sống thêm cho bệnh nhân ung thư vú.
TS Trần Văn Thuần