Điều trị ung thư tế bào đáy
Chủ yếu là phẫu thuật hoặc tia xạ đơn thuần. Hai phương pháp này có hiệu quả tương đương nhau cả về kết quả sớm và lâu dài. Mục tiêu điều trị là mổ triệt căn u hoặc tia xạ phá huỷ hết u.
- Giai đoạn 0 (Tis N0 M0): Phẫu thuật đơn thuần. Gây tê tại chỗ, cắt bỏ rộng quá rìa u 0,5cm, diện cắt sâu đến lớp mỡ dưới da. Kiểm tra điện cắt sạch u bằng giải phẫu bệnh lý.
- Giai đoạn I (Tl N0 M0), Giai đoạn II (T2, T3 N0 M0): Phẫu thuật đơn thuần. Gây tê vùng hoặc gây mê, cắt bỏ rộng quá rìa u 0.5cm, diện cắt sâu đến lớp mỡ dưới da, kiểm tra diện cắt sạch u bằng giải phẫu bệnh lý. Vị trí u vùng mặt cần xoay vạt da che phủ. Trường hợp T3, nếu phẫu thuật khó tạo hình thì nên chỉ định tia xạ liều khoảng 55Gy. Nên phối hợp xạ áp sát với xạ ngoài, tia nông, bảo vệ mắt.
- Giai đoạn III (T4 N0 M0): Chỉ định tia xạ liều khoảng 55 Gy. Nên phối hợp xạ áp sát với xạ ngoài, tia nông, bảo vệ mắt. Ung thư tế bào đáy gần như không di căn hạch nên không điều trị tại vùng, không di căn xa nên không điều trị toàn thân. Trường hợp bệnh tái phát sau phẫu thuật hoặc tia xạ có thể mổ lại, tạo hình hoặc để hở da đều cho kết quả tốt.
Điều trị ung thư tế bào vảy và ung thư tuyến phụ thuộc da
Nguyên tắc điều trị là phẫu thuật lấy hết khối u tại chỗ phối hợp với vét hạch vùng. Phẫu thuật là chủ yếu. Tia xạ đơn thuần ít tác dụng nhưng có thể bổ trợ cho phẫu thuật chống tái phát tại chỗ và tại hạch. Đối với di căn hạch hoặc ung thư ít và không biệt hoá, hoá chất có tác dụng điều trị vi di căn. Khi có di căn xa trên lâm sàng và hình ảnh, hoá chất tác dụng không rõ rệt.
- Giai đoạn 0 (Tis N0 M0): Phẫu thuật đơn thuần. Gây tê tại chỗ, cắt bỏ rộng quá rìa u 2cm, diện cắt sâu vượt quá lớp mỡ dưới da. Kiểm tra diện cắt sạch u bằng giải phẫu bệnh lý. Nên tạo hình bằng xoay vạt da.
- Giai đoạn I (Tl N0 M0), Giai đoạn II (T2, T3 N0 M0): Phẫu thuật cắt bỏ rộng quá rìa u 2cm, diện cắt sâu đến lớp cơ hoặc màng xương. Kiểm tra diện cắt sạch u bằng giải phẫu bệnh lý. Vị trí u vùng mặt cần xoay vạt da che phủ, nếu quá khó khăn có thể để hở rồi vá da kỳ 2. Trường hợp T3 Ở bàn tay, bàn chân nên cân nhắc chỉ định cắt cụt hoặc tháo khớp vì u to ở vùng này dễ tái phát sau mổ bảo tồn. Mọi trường hợp đều có vét hạch vùng. Cụ thể u vùng đầu cổ phải vét hạch cổ chọn lọc từng bên. U ở tay cần vét hạch nách. U ở chân cần vét hạch bẹn. U ở thân mình thuộc dẫn lưu bạch huyết ở nách thì vét hạch nách, ở bẹn thì vét hạch bẹn. Tia xạ bổ trợ đối với các trường hợp có độ ác tính cao (ít biệt hoá, không biệt hoá), diện cắt tiếp cận u, diện cắt chưa sạch u, có di căn hạch qua xét nghiệm giải phẫu bệnh sau mổ.
- Giai đoạn II (T4 N0 M0): Khối u ở chi, chỉ định cắt cụt chi hoặc tháo khớp, vét hạch khu vực. Nếu u ở đầu cổ và thân mình, phẫu thuật cắt u tối đa, thậm chí đục bỏ xương bị u xâm lấn. Nên tạo hình bằng vạt da-cơ che phủ khuyết. Tia xạ bổ trợ đối với độ ác tính cao (ít biệt hoá, không biệt hoá), diện cắt tiếp cận u, diện cắt chưa sạch u, có di căn hạch qua xét nghiệm giải phẫu bệnh sau mổ.
- Giai đoạn III (mọi T có N1 M0): Phẫu thuật u tuỳ theo xếp loại u tương tự như các giai đoạn trên. Riêng về vét hạch, phải vét thêm 1 chặng hạch, ví dụ vét hạch bẹn thì phải vét thêm hạch chậu ngoài, vét hạch nách phải vét thêm hạch dưới đòn. Cần có tia xạ bổ trợ sau mổ.
- Giai đoạn IV (mọi T, mọi N, có di căn xa M1): Bệnh đã tiến xa, xu hướng điều trị triệu chứng. Phẫu thuật sạch sẽ khối u nguyên phát phối hợp với hoá chất toàn thân nếu có các điều kiện: sức khoẻ cho phép, tuổi < 70, ung thư ít hoặc không biệt hoá. Hoá chất có thể dùng phối hợp Cisplatin với Doxorubicin 6 đợt mỗi đợt cách nhau 21 ngày. Liều thuốc và cách dùng trong mỗi đợt như sau: Cis-platin 50mg/m2, truyền TM ngày thứ nhất. Doxorubicin 75mg/m2, truyền TM ngày thứ nhất.
TIÊN LƯỢNG
Ung thư tế bào đáy tiến triển chậm, hầu như không di căn hạch và di căn xa nên kết quả điều trị rất tốt. Kết quả sống thêm 5 năm đạt 98%, nếu tái phát mổ tại cũng tốt, sống thêm 5 năm đạt 96%.
Ung thư tế bào vảy biệt hoá cao, chưa di căn hạch thường cho kết quả tốt. Trường hợp có di căn hạch, ung thư ít hoặc không biệt hoá thường di căn xa sau điều trị nên kết quả xấu. Sống thêm 5 năm khoảng 70%.
Ung thư tuyến phụ thuộc da thường xâm lấn sâu và rộng, sớm di căn hạch, di căn xa, ít đáp ứng với tia xạ và hoá chất. Sống thêm 5 năm < 50%.