Phương pháp điều trị ung thư biểu mô tế bào gan
Ung thư biểu mô tế bào gan là bệnh ung thư phổ biến thứ 5 trên toàn thế giới và đứng thứ 3 của tỷ lệ tử vong do ung thư và tỷ lệ mắc sẽ tăng thêm và đạt tới đỉnh điểm vào năm 2015-2020. Lịch sử tự nhiên của bệnh đó được biết khá rõ, ngoại trừ bệnh giai đoạn sớm bởi vỡ phần lớn bệnh nhân ở giai đoạn này được điều trị khỏi hoàn toàn. Mặc dù với sự tiến bộ về điều trị, thời gian sống thêm toàn bộ của bệnh ung thư gan không cải thiện có ý nghĩa trong hai thập kỷ vừa qua. Trong phần lớn các trường hợp ung thư gan đều phát sinh từ xơ gan, vỡ vậy, tiên lượng của ung thư gan không chỉ phụ thuộc vào giai đoạn bệnh mà cũng phụ thuộc vào cả chức năng gan. Hệ thống chia giai đoạn là chìa khóa để dự báo tiên lượng bệnh nhân ung thư, để phân loại bệnh nhân theo các mức độ tiên lượng khác nhau trong sự sắp đặt thử nghiệm lâm sàng và để hướng dẫn cách điều trị. Tuy nhiên, kiến thức hiện tại về bệnh không đủ để giới thiệu một hệ thống phân giai đoạn được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Hệ thống chia giai đoạn kinh điển - giai đoạn Okuda và giai đoạn TNM đó cho thấy cỏc hạn chế quan trọng để phân loại bệnh. Gần đây nhiều hệ thống mới đó được đề nghị, nhưng chỉ có 3 hệ thống có giá trị. Sự phân chia giai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona (BCLC) liên kết giai đoạn bệnh với một chiến lược điều trị đặc biệt. Thang điểm chia giai đoạn hợp nhất Nhật Bản (JIS) đó được đề nghị và được sử dụng ở Nhật Bản, mặt dù nó cần sự phê chuẩn của Phương Tây. Thang điểm ung thư CLIP chủ yếu được đề cập đối với các khối u giai đoạn muộn. Forner và cs đưa ra một phân loại giai đoạn mới, trong đó ung thư gan được chia thành 4 nhóm chính và có liên hệ tự phát với điều trị. Ở giai đoạn sớm, khối u đơn lẻ, không có triệu chứng, đường kính tối đa 5cm hoặc có trên 3 nốt, mỗi nốt< 3cm. Sự phỏt hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan qua các chương trỡnh sàng lọc. Giai đoạn này điều trị có hiệu quả bao gồm phẫu thuật, ghép gan và cắt qua da. Giai đoạn trung bỡnh khi khối u vượt quá giới hạn giai đoạn sớm, nhng không có triệu chứng ung thư và xâm nhập mạch hoặc lan ra ngoài gan và có thể giảm đau được bằng tắc mạch bằng hóa chất. Các bệnh nhân có triệu chứng ung thư nhẹ và/hoặc xâm nhập mạch hoặc lan ra ngoài gan được xếp vào giai đoạn muộn. Giai đoạn này điều trị bệnh không hiệu quả và bệnh nhân chỉ có thể được hưởng lợi từ liệu pháp điều trị mới qua thử nghiệm lâm sàng được kiểm sóat ngẫu nhiờn. Giai đoạn cuối là các bệnh nhân có triệu chứng ung thư nghiêm trọng hoặc các khối u lớn và chỉ có thể điều trị triệu chứng.
Khả năng áp dụng các phương pháp điều trị này khác nhau phụ thuộc vào sự phân bố địa lý: từ 20-70% cỏc trường hợp ở Nhật Bản, 25-40% ở các trường hợp ở Châu Âu và Mỹ, <10% ở Châu Phi. Không có các thử nghiệm được kiểm soát ngẫu nhiên so sánh với 3 phương pháp điều trị chính. Cắt và ghép gan đạt kết quả tốt nhất ở các bệnh nhân được lựa chọn kỹ (thời gian sống 5 năm từ 60-70%) và cạnh tranh như một sự tối ưu nhất với triển vọng điều trị trúng đích. Điều trị qua da mang lại kết quả tốt (thời gian sống 5 năm từ 40-50%) nhưng không thể đạt được tỷ lệ đáp ứng và kết qủa có thể so sánh với điều trị phẫu thuật, ngay cả khi được áp dụng như một sự tối ưu nhất.
Sự phẫu thuật nhiệt bằng sóng radio mang lại tỷ lệ đáp ứng tốt hơn một ít so với tiêm cồn, nhưng không tốt hơn về thời gian sống thêm đó được chứng minh hoàn toàn. Các phương pháp điều trị cũn lại đó được đánh giá trong khoảng 70 nghiên cứu thử nghiệm được kiểm soỏt ngẫu nhiên được thực hiện trong 25 năm qua. Gây tắc mạch bằng hóa chất đó cho thấy mang lại kết quả tốt trong thời gian sống thờm ở 2 thử nghiệm lõm sàng được kiểm soỏt ngẫu nhiờn và một dị phõn tớch và hiện tại là phương pháp điều trị chính trong 10% các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan. Các đối tượng lý tưởng đối với sự tối ưu này là các bệnh nhân với chức năng gan được bảo tồn tốt (Child-pugh lớp A) và các khối u đa ổ không có triệu chứng không có xâm nhập mạch. Các thử nghiệm lâm sàng được kiểm sóat ngẫu nhiên hơn nữa cần để đánh giá các thuốc hóa chất tốt nhất và phương thức điều trị lại lý tưởng. Không có sự tối ưu nhất đối với các bệnh nhân có ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn muộn (xâm nhập mạch máu, lan tràn ra ngoài gan hoặc các triệu chứng liên quan tới ung thư). Điều trị doxorubicin toàn thân cung cấp sự đáp ứng một phần ở 10% các trường hợp, không có cải thiện thời gian sống thêm, và các biến chứng liên quan tới điều trị được biết rõ. Nhiều loại điều trị khỏc như liệu phỏp miễn dịch, xạ trị trong, tamoxifen hoặc cỏc thuốc chống oxy hóa không cho thấy hiệu quả chống khối u rõ ràng hoặc cải thiện thời gian sống thờm. Các thuốc mới như chất ức chế tyrosine kinase và các thuốc chống tạo mạch đang được kiểm tra trong cỏc thử nghiệm lâm sàng.
Tại hội nghị hàng năm của hội ung thư lâm sàng Mỹ đó giới thiệu kết quả thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát placebo ngẫu nhiên giai đoạn 3 là Sorafenib đó chứng minh cải thiện thời gian sống của các bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối. Nghiên cứu nổi bật này giới thiệu thuốc đầu tiên đó chứng minh lợi ích sống thêm được cải thiện và đưa ra tiêu chuẩn mới cho sự lựa chọn hàng đầu đối với ung thư gan giai đoạn muộn.
Tài liệu tham khảo
1. Forner A, Hessheimer AJ, Isabel Real M, Bruix J (2006):Treatment of hepatocellular carcinoma. Crit Rev Oncol Hematol. 60(2):89-98. Epub 2006 Jul 24.
2. Llovet JM (2005): Updated treatment approach to hepatocellular carcinoma. J Gastroenterol. 40(3):225-35.
3. Zhu AX (2007): Development of sorafenib and other molecularly targeted agents in hepatocellular carcinoma. Cancer.