Cụ thể là, tỷ lệ sống thêm 5-năm ở các bệnh nhân (BN) không đau hoặc đau ít sau đìêu trị cao hơn đáng kể (81,8%) so với các bệnh nhân đau ở mức trung hoặc cao (65,1%) (P = 0.04), theo báo cáo của Trường Đại học y Iowa, thành phố Iowa.
Ngoài ra, mức độ đau cao hơn có liên quan với sự tái phát trong năm đầu tiên sau điều trị. Điểm đau trung bình của các BN tái phát bệnh trong năm đầu tiên đã lớn hơn đáng kể so với điểm đau trung bình của các BN không tái phát (2,9 so với 1,4; P = 0.006).
\"Vì vậy khi BN bị cơn đau tấn công hay gia tăng đau đớn, các nhà chuyên khoa nên nhanh chóng lập chế độ điều trị tích cực bệnh tái phát cho BN” theo lời khuyên của Thạc sĩ, bác sĩ Joseph Scharf khoa tai mũi họng, phẫu thuật đầu cổ.
Các kết quả của nghiên cứu mới rất quan trọng là triệu chứng đau sau điều trị đã thường xuyên bị \" các bệnh nhân ung thư đầu cổ đánh giá không đúng mức và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho là thứ yếu, không quan trọng.\"
Nghiên cứu đã nêu một điểm cần phải đặc biệt lưu ý là: khái niệm đau trong bảng câu hỏi thăm dò ý kiến bệnh nhân đã không phân biệt giữa đau đầu cổ với đau ở phần khác của cơ thể. Tuy nhiên, các tác giả đã lưu ý rằng nó \"không hẳn là như thế\" mà các kết quả do có thể biểu hiển mối liên quan giữa triệu chứng đau, su tái phát, và thời gian sống thêm, nếu đau không liên quan đến bệnh ung thư đầu cổ là một \"vấn đề quan trọng.\"
Các chi tiết nghiên cứu
Một nghiên cứu mới của Đại học y Iowa về đánh giá kết quả điều trị ung thư đầu cổ từ năm 1998 đến 2001. Bản tự đánh giá đau của BN đã được thu thập tại các thời điểm 3, 6, 9 và 12 tháng sau điều trị.
Trong mỗi bản đánh giá, các bệnh nhân tự chỉ ra mức độ đau trung bình của họ trong khoảng thời gian 4 tuần trước đó, bằng cách sử dụng một thang điểm đánh giá độ đau tu 0 đến 10. Trong các bản phân tích, các điểm đau được biểu diễn là không (0), thấp (1 - 3), trung bình (4 - 6), hoặc cao (7 - 10).
Trong số 339 bệnh nhân được phân tích, hầu hết đã có bệnh nguyên phát (84.4%), hoặc bệnh ở giai đoạn tiến triển (59,9%), và các bệnh ác tính thường gặp nhất là ung thư khoang miệng (42,2%), hoặc các khối u thanh quản (23,3%). Hầu hết các bệnh nhân được phẫu thuật đơn thuần (37,2%), hoặc phẫu thuật kết hợp với xạ trị (37,7%). Khoảng 13% BN được xạ trị đơn thuần, rất ít bệnh nhân được điều trị hóa chất ở bất kỳ hình thức nào.
Các kết quả đã cho biết các mức đau trong thời gian theo dõi 1 năm đầu tiên: điểm đau trung bình giảm từ 2,7 (ở thời điểm 3 tháng) xuống 1,6 (thời điểm12 tháng). Tỷ lệ bệnh nhân đánh giá không đau đã tăng từ 45,9% (trước điều trị) đến 61,4% (12 tháng sau điều trị). Tuy nhiên, khoảng 10% bệnh nhân đã cho thấy các mức đau cao trong suốt 1 năm.
Hãy để cho nhân viên thu thập thông tin về triệu chứng đau
Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng điểm đau cao hơn cũng liên quan với độ tuổi đựơc chẩn đoán bệnh: có tình trạng chung về thể chất và tâm lý kém hơn, các triệu chứng trầm cảm trầm trọng hơn, cũng như tỷ lệ sống thêm 5 năm và tái phát xấu hơn trong năm đầu tiên ở nhũng bệnh nhân trẻ hơn,.
Các tác giả lưu ý rằng: việc theo dõi biểu hiện đau nên là một phần của tiến trình giám sát ung bướu thường quy .\"Yêu cầu của Ủy Ban Joint là đau được đánh giá như một “dấu hiệu sống
thứ 5” có thể cung cấp cách để chứng minh biểu hiện đau và xác định các mức độ đau đớn thay đổi theo thời gian \".
<!--[if gte vml 1]-->
Theo yêu cầu của Ủy Ban Joint thì triệu chứng đau nên được đánh giá như một “dấu hiệu sống thứ 5” có thể cung cấp được cách thức để chứng minh biểu hiện đau đớn của BN. |
Ai sẽ thực hiện đánh giá này? Các tác giả cho rằng người thực hiện đánh giá này phải là nhân viên chứ không phải là bác sĩ, để \"bệnh nhân có thể thoải mái trao đổi về những khó chịu này của họ.\"
Theo Nick Mulcahy
Arch Otolaryngol Head Neck Surg. 2009; 135 [8] :789-794.
Vũ Lệ Thương (dịch)