Afinitor được sản xuất bởi hãng dược phẩm Novartis International AG của Basel, Thụy Sĩ.
TS. Robert Justice, giám đốc của bộ phận sản phẩm thuốc ung thư của trung tâm nghiên cứu và đánh giá thuốc của FDA nói:
“Afinitor cung cấp một chọn lựa cho bệnh nhân bị ung thư tế bào thận tiến triển sau thất bại với điều trị ung thư bằng sunitinib (tên thương mại là Sutent, của hang Pfizer) hoặc sorafenib (Nexavar, của Bayer).”
“Liệu pháp điều trị ung thư đích giống như Afinitor đã gia tăng số tháng mà bệnh nhân có thể sống mà không có thêm sự gia tăng các khối u”.
Hình thức thông thường nhất của ung thư thận là ung thư biểu mô tế bào thận, chúng bắt đầu những tế bào ống nhỏ bên trong thận, là những tế bào có thể làm sạch máu bằng cách lọc ra những chất thải của quá trình chuyển hóa và các quá trình khác của cơ thể. Đó là lí do của 2% bệnh ung thư mới và tỉ lệ của những trường hợp mới đang gia tăng trên khắp thế giới, phần nào cũng bởi vì tình trạng hút thuốc lá và béo phì, theo nguồn lấy từ báo cáo của Novartis.
Ung thư biểu mô tế bào thận vẫn duy trì điều trị chuẩn giống như liệu pháp chữa bệnh bằng bức xạ và hóa trị, điều trị thường bắt đầu với việc phẫu thuật loại bỏ phần thận bị bệnh. Nếu ung thư không lan rộng ra ngoài phần thận đó thì 5 năm sống sau phẫu thuật có thể đạt được khoảng 60-70%, nhưng tỉ lệ đó sẽ ít hơn nếu ung thư lan rộng.
Afinitor là chất ức chế enzyme kinase, nó dừng sự phát triển các khối u bằng cách ngăn một protein đặc hiệu gọi là mTOR, đích tác động của các loài động vật có vú của thuốc kháng sinh rapamycin. Hành động này làm ngăn việc tế bào giao tiếp làm tế bào ung thư phát triển, phân chia và chuyển hóa. Ngược lại, thuốc Suten và Nexavar là những chất ức chế nhiều loại enzym kinase và hoạt động trên nhiều đích tác động cùng một lúc.
FDA chấp nhận dựa trên kết quả của thử nghiệm lâm sàng RECORD-1, là thử nghiệm kiểm tra tính an toàn và hiệu quả của Afinitor được cho uống hằng ngày so với giả dược. Thử nghiệm đã bị ngưng sớm vì kết quả tạm thời cho thấy bệnh nhân dùng thuốc đã làm chậm sự phát triển khối u và sự di căn so với những người không dùng thuốc, cũng như vậy, tiến triển của bệnh đã trì hoãn khoảng 5 tháng ở 50% bệnh nhân dùng thuốc so với chỉ 2 tháng ở những người không dùng.
Theo thông báo của FDA, hầu hết phản ứng bất lợi (xuất hiện ở 1 trong số 5 bệnh nhân dùng thuốc) bao gồm: viêm nhiễm vùng miệng, cảm thấy mệt mỏi, tiêu chảy, chán ăn, phù tăng dần ở các chi, thở ngắn, ho, buồn nôn, ói mữa, nổi sảy và sốt.
Thử nghiệm mẫu máu cũng cho thấy ít nhất phân nửa bệnh nhân bị thiếu máu, có ít tế bào bạch cầu, cholesterol cao, đường máu tăng cao và cao triglyceride (mỡ máu).
TS. Robert J Motzer nói rằng: “Việc chấp thuận này cung cấp một công cụ mới và hữu ích cho điều trị ung thư biểu mô tế bào thận tiến triển, là một bước quan trọng tiến tới việc giải quyết được căn bệnh này.”
“Lựa chọn điều trị mới là quan trọng giúp chúng ta tiếp tục cung cấp cho bệnh nhân bị ung thư thận tiến triển những phương cách mới để chống lại căn bệnh khó chữa của họ. Dựa vào các dữ liệu của thử nghiệm lâm sàng, lựa chọn này có thể được xem xét khi sunitinib hoặc sorafenib thất bại”.
Novartis nói rằng công ty cũng đã lưu trữ các dữ liệu cho việc chấp thuận Afinitor ở châu Âu, Thụy Sĩ và Nhật Bản, cũng như với các đại diện trên thế giới và rằng thử nghiệm lâm sàng pha 3 đang được thực hiện để thăm dò tiềm năng của thuốc trong việc điều trị nhiều bệnh ung thư khác.
David Epstein, chủ tịch và giám đốc điều hành bộ phận Ung thư Novartis, Phân tích phân tử Novartis, nói rằng: “Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu Afinitor cho điều trị ung thư thận, và thông qua một chương trình thử nghiệm lâm sàng mở rộng để nghiên cứu khả năng chữa các loại ung thư khác”.