Ung thư vú đang đứng thứ 2 trong số các dạng ung thư thường mắc ở phụ nữ tại nước ta. Đa phần người bệnh đến viện khi bệnh đã nặng khiến hiệu quả điều trị thấp.
Với những tiến bộ trong chẩn đoán hiện nay, bệnh nhân chỉ cần thực hiện: khám sàng lọc, siêu âm và chụp XQ tuyến vú là có thể phát hiện bệnh sớm nhất, đồng thời có thể phát hiện được nhiều bất thường khác của vú như: nang vú, viêm vú, bọc sữa, những tổn thương giả u…
Thông tin được ra tại lễ phát động Cuộc thi tìm hiểu phòng chống ung thư vú diễn ra ngày 13/12 do Bộ Y tế và Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp tổ chức.
Tại Việt Nam, theo thống kê của chuyên ngành ung thư, mỗi năm có khoảng 150.000 ca mới mắc ung thư và 75.000 người tử vong vì căn bệnh này. Ở Hà Nội và TPHCM, bệnh ung thư vúchiếm tỷ lệ 20-30% trong số các bệnh nhân ung thư và ngày càng có xu hướng gia tăng.
Ung thư vú đang đứng thứ 2 trong số các dạng ung thư thường mắc ở phụ nữ tại nước ta. Đa phần người bệnh đến viện khi bệnh đã nặng khiến hiệu quả điều trị thấp.
Cuộc thi là một trong những hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức về ung thư vú của các hội viên Hội phụ nữ. Đây cũng là cơ hội rất thích hợp để cổ vũ, động viên các tuyên truyền tại cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động truyền thông tại cộng đồng để giúp chị em phụ nữ hiểu biết đầy đủ về căn bệnh và sớm hình thành những thói quen, những động thái có lợi cho sức khỏe, đặc biệt trong việc phát hiện sớm ung thư vú phụ nữ để điều trị kịp thời mang lại cuộc sống mạnh khỏe, hạnh phúc cho mỗi gia đình và cả cộng đồng.
Theo PGS.TS Trần Đình Hà, Phó Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu, BV Bạch Mai, hiện trên thế giới, cứ 22 giây lại có 1 phụ nữ được chẩn đoán ung thư vú; cứ 5 phút có 3 phụ nữ chết do ung thư vú. Mỗi năm, có khoảng 1,4 triệu người mắc ung vú, trong đó có 458.000 ca tử vong.
Theo PGS.TS Trần Đình Hà, xu hướng mắc bệnh ung thư vú không những gia tăng ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong đang có xu hướng giảm tại Việt Nam. Điều này được chứng minh thông qua tỷ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn 2 được chữa khỏi, chiếm 60%; đặc biệt, những bệnh nhân nếu được phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, khả năng chữa khỏi bệnh lên tới 90%.
Tuy nhiên, hiện nay, tỷ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn ở nước ta vẫn cao nên tỷ lệ tử vong vẫn ở mức 60%.
Đối với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ sau 40 tuổi nên đi khám kiểm tra định kỳ 6 tháng/lần để phát hiện sớm những bất thường về sức khỏe, trong đó có bệnh lý về tuyến vú nhằm phát hiện sớm bệnh ung thư vú và tránh tình trạng khi chẩn đoán ra bệnh thì khả năng điều trị không cao mà tốn kém.
Bệnh nhân chỉ cần thực hiện: khám sàng lọc, siêu âm và chụp XQ tuyến vú là có thể phát hiện bệnh sớm nhất, đồng thời có thể phát hiện được nhiều bất thường khác của vú như: nang vú, viêm vú, bọc sữa, những tổn thương giả u…
Bên cạnh đó, còn có sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại như máy PET /CT, máy cộng hưởng từ… sẽ giúp phát hiện các di căn ung thư sớm nhất, phát hiện u nguyên phát sớm ở vú… Từ đó, các bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp, kéo dài thời gian sống của bệnh nhân.
Bệnh ung thư vú được coi là bệnh toàn thể nên các liệu pháp điều trị gồm: các kỹ thuật điều trị tại chỗ, tại vùng như phẫu thuật xạ trị và liệu pháp toàn thân như hóa chất, nội tiết… được sử dụng kết hợp theo phác đồ được đánh giá có hiệu quả cao đối với bệnh nhân.
Những người có nguy cơ cao mắc ung thư vú gồm: có tiền sử người trong gia đình bị ung thư vú, phụ nữ trên 30 tuổi, phụ nữ có kinh sớm hoặc mãn kinh muộn, người béo phì, hút thuốc lá, mang gene đột biến…
Triệu chứng của bệnh ung thứ vú đa số là sờ thấy khối u ở vú, có cảm giác như kiến cắn ở núm vú, hoặc da ở núm vú biến đổi, sờ thấy hạch nách, ở giai đoạn muộn thì bị thâm nhiễm ngoài da.
Theo guru.vn