Bệnh nhân bạch cầu cấp dòng tuỷ được điều trị ổn định tại Trung tâm y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai

Ngày đăng: 11/08/2011 Lượt xem 6305

Bệnh nhân cảm thấy người mệt mỏi cách ngày vào viện 5 tháng, kèm theo chán ăn, hoa mắt, chóng mặt, làm việc kém tập trung, đau mỏi vùng hạ sườn hai bên, gầy sút 4kg/ 5 tháng. Bệnh nhân đã đi khám và điều trị nhiều nơi nhưng không đỡ. Bệnh nhân đến khám bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai.

Bệnh cảnh: Bệnh nhân Đoàn Thị M., nữ 42 tuổi vào khám bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9 năm 2009 với triệu chứng mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt.

Bệnh nhân cảm thấy người mệt mỏi cách ngày vào viện 5 tháng, kèm theo chán ăn, hoa mắt, chóng mặt, làm việc kém tập trung, đau mỏi vùng hạ sườn hai bên, gầy sút 4kg/ 5 tháng. Bệnh nhân đã đi khám và điều trị nhiều nơi nhưng không đỡ. Bệnh nhân đến khám bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai

Bệnh nhân có hội chứng thiếu máu: da xanh, niêm mạc rất nhợt. Hạch ngoại vi không sờ thấy.

Gan to 5cm dưới bờ sườn, lách to ngang rốn (khoảng 8cm dưới bờ sườn).

Các bộ phận khác chưa có gì đặc biệt

Xét nghiệm công thức máu: Hồng cầu: 2,15 T/l; Hb: 72g/l; Bạch cầu: 9,5G/l; Bạch cầu trung tính: 6,3G/l; Tiểu cầu: 235G/l; có 45% tế bào non (tế bào bất thường) trong máu. Xét nghiệm sinh hoá máu: Ure: 4,8 mmol/l; Creatinin: 68µmol/l; ASAT: 11 U/l; ALAT: 8U/l

Bệnh nhân được làm các xét nghiệm đánh giá đồng thời được điều trị: truyền khối hồng cầu, nâng cao thể trạng, tăng cường miễn dịch.

Xét nghiệm huyết tuỷ đồ cho kết quả: bạch cầu cấp dòng tuỷ thể M5a.

Xạ hình xương: bình thường

CT ổ bụng: gan-lách to, không có hạch ổ bụng, không có dịch ổ bụng

Bệnh nhân được điều trị hoá chất tấn công tháng 9 năm 2009.

Sau điều trị 4 ngày men gan tăng cao (ASAT: 245; ALAT:178); bạch cầu hạ:1,2 G/l; bạch cầu trung tính: 0,5G/l. Tiểu cầu: 56 G/l. Bệnh nhân sốt cao liên tục nhiệt độ 390 đến 420; những lúc sốt cao bệnh nhân mê sảng, lơ mơ. Gia đình bệnh nhân rất lo lắng, nhiều lúc tưởng như sẽ không qua khỏi.

Trên phim chụp CT sọ não không có hình ảnh xuất huyết não

Trên phim chụp CT ngực: không có hình ảnh viêm phổi

Cấy máu lần 1 và lần 2 cho kết quả âm tính

Bệnh nhân được điều trị kết hợp kháng sinh và thuốc kích thích tuỷ xương tạo hồng cầu, bạch cầu. Bệnh diễn biến tiếp tục xấu với những cơn sốt cao không giảm, liên tục 390 đến 420, khi sốt cao bệnh nhân mê sảng, ăn kém, thỉnh thoảng đau đầu, không khó thở, không nôn. Xét nghiệm máu bạch cầu tiếp tục hạ: 0,8 G/l; bạch cầu trung tính: 0,3G/l; Hồng cầu: 2,8T/l; Hb: 80g/l.

Cấy máu lần 3 cho kết quả dương tính với trực khuẩn mủ xanh

Bệnh nhân diễn biến ngày càng nặng dần: tiếp tục sốt cao, mê sảng. Gia đình bệnh nhân rất lo lắng và đã có những lúc gia đình nản trí, muốn xin cho bệnh nhân về nhà để chăm sóc tại nhà.

Bệnh nhân tiếp tục được điều trị phối hợp 2 loại kháng sinh và thuốc chống nấm mạnh, truyền máu, thuốc kích thích tuỷ xương tạo hồng cầu, bạch cầu, nâng cao thể trạng. Sau 11 ngày bệnh nhân dần dần giảm sốt rồi hết sốt, ăn khá hơn trước.

Xét nghiệm công thức máu: Hồng cầu:3,19 T/l; Hb: 96g/l; Bạch cầu: 5,80G/l; Bạch cầu trung tính: 3,2G/l; Tiểu cầu: 156G/l.

Lúc này bệnh nhân được làm lại xét nghiệm huyết tuỷ đồ cho thấy bệnh thoái lui hoàn toàn, không còn tế bào bất thường trong máu và trong tuỷ.

Trên lâm sàng bệnh nhân đỡ triệu chứng thiếu máu, thể trạng chung khá hơn, tóc rụng hết, ăn khá hơn, đỡ mệt mỏi, đỡ hoa mắt chóng mặt nhưng còn đau tức vùng hạ sườn hai bên.

Khám bệnh nhân cho thấy gan lách vẫn to, không thay đổi kích thước so với trước.

Bệnh nhân tiếp tục được điều trị hoá chất củng cố đợt 1

Sau điều trị hoá chất cũng cố đợt 1: được 3 tuần (tháng 12 năm 2009) bệnh nhân bị loét tầng sinh môn nặng (toàn bộ vùng tầng sinh môn trái bị loét, chảy dịch hôi, vết toác đường kính 8x8cm), không sốt (nhiệt độ 36,80). Xét nghiệm công thức máu: Bạch cầu 14,5G/l; Bạch cầu trung tính 9,7G/l; Hồng cầu: 4,18T/l; Hb: 118g/l; Tiểu cầu: 197G/l. Xét nghiệm sinh hoá máu: chức năng gan thận trong giới hạn bình thường.

Bệnh nhân được điều trị kháng sinh tại chỗ kết hợp kháng sinh toàn thân sau 2 tháng vết toác vùng tầng sinh môn liền hẳn.

Bệnh nhân được điều trị hoá chất củng cố đợt 2. Sau điều trị bệnh nhân hết đau mỏi vùng mạng sườn hai bên, hết hoa mắt, hết chóng mặt, không sốt.

Xét nghiệm công thức máu cho thấy: Hồng cầu: 4,18 T/l; Hb: 136g/l; Bạch cầu: 8,5G/l; Bạch cầu trung tính: 5,3G/l; Tiểu cầu: 246G/l

Xét nghiệm sinh hoá máu: Ure: 5,4 mmol/l; Creatinin: 56µmol/l; ASAT: 7 U/l; ALAT: 11U/l

Xét nghiệm huyết tuỷ đồ: không có tế bào bất thường trong tuỷ; bệnh đáp ứng hoàn toàn.

Khám trên lâm sàng cho thấy; gan và lách đã thu nhỏ kích thước hơn trước: gan to 2cm dưới bờ sườn, lách to 3 cm dưới bờ sườn, hạch ngoại vi không sờ thấy.

                                                 

 

Bệnh nhân tiếp tục được điều trị hoá trị duy trì dạng uống hàng ngày. Bệnh nhân sinh hoạt bình thường và đi làm trở lại

Cho đến nay sau hơn 1 năm điều trị bệnh: hiện tại bệnh nhân đang uống thuốc duy trì hàng ngày. Bệnh nhân ăn uống, sinh hoạt bình thường, đi làm bình thường, không sốt, không đau đầu, không nôn

Khám hiện tại thấy bệnh nhân có thể trạng khá, tăng 10 kg so với trước khi điều trị bệnh. Hạch ngoại vi không sờ thấy, Gan lách đã thu nhỏ kích thước (trên lâm sàng không sờ thấy gan và lách).

Xét nghiệm công thức máu, sinh hóa máu và huyết tủy đồ trong giới hạn bình thường. Cho đến thời điểm hiện tại bệnh nhân ổn định, đạt thoái lui bệnh hoàn toàn.

Lần tái khám gần đây nhất của bệnh nhân là giữa tháng 6 năm 2011 (sau khi phát hiện bệnh 18 tháng); bệnh nhân khỏe mạnh, ăn ngủ tốt, sinh hoạt bình thường.

Xét nghiệm công thức máu: Hồng cầu: 5,34 T/l; Hb: 126g/l; Bạch cầu: 6,0G/l; Bạch cầu trung tính: 3,7G/l; Tiểu cầu: 441G/l

Xét nghiệm sinh hoá máu: Ure: 4,6 mmol/l; Creatinin: 58µmol/l; ASAT: 30 U/l; ALAT: 15U/l; LDH: 162 U/l

          Kết quả chụp CT ổ bụng: gan, lách trong giới hạn bình thường

                                  

Chúng tôi sẽ tiếp tục điều trị duy trì thuốc hàng ngày để nhằm kéo dài thời gian đáp ứng hoàn toàn về bệnh cho bệnh nhân. Bệnh nhân được hẹn định kỳ khám lại mỗi 3 tháng nhằm theo dõi sát tình trạng bệnh và nhằm sớm phát hiện các tổn thương bất thường để được điều trị sớm.

Hy vọng bệnh nhân Đoàn Thị M. sẽ ổn định bệnh được lâu dài để tiếp tục sống với người thân và phục vụ xã hội.

PGS. TS Mai Trọng Khoa, ThS Phạm Cẩm Phương

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bach Ma

Tin liên quan