U não là thuật ngữ thường dùng có tính quy ước để chỉ các u trong sọ, bệnh hay gặp trong hệ thống thần kinh trung ương. Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm tỷ lệ mắc u não từ 3-5/100.000 và con số này ngày càng tăng. Tần suất mắc bệnh chủ yếu gặp ở 2 nhóm tuổi từ 3-12 và 40- 70. Tại Mỹ, tỷ lệ mắc u não là 4,5/100.000 dân, tỷ lệ tử vong đứng thứ 5 sau các bệnh ung thư phổi, dạ dày, tử cung và vú. Ở Việt Nam, thống kê năm 2000, tỷ lệ mắc u não chiếm 1,3/100.000 dân.
Ở những thập niên trước, điều trị các bệnh lý nội sọ chủ yếu bằng phẫu thuật mở hộp sọ, tiếp đến phẫu thuật vi phẫu…Trong những năm gần đây, sự ra đời của máy xạ trị gia tốc, máy xạ phẫu bằng dao gamma(gamma knife), X knife, Cyber knife… đã giúp giải quyết những trường hợp khó hoặc không phẫu thuật được, mang lại chất lượng sống tốt hơn cho người bệnh.
Hệ thống dao Gamma có hai loại: Dao gamma cổ điển và dao gamma quay (Rotating Gamma Knife,RGK). Nguyên lý chung là sự hội tụ chính xác của các chùm tia bức xạ gamma của nguồn Cobal-60 (Co-60) vào tổn thương.
Hệ thống xạ phẫu dao gamma cổ điển
Năm 1968, hệ thống xạ phẫu (Radiosurgery) bằng dao gamma (dao gamma cổ điển) do Larsleksell và Borje Larson (Thụy Điển) chế tạo ra. Hệ thống này là sự kết tinh những thành tựu công nghệ khoa học kỹ thuật, nó thực sự có ý nghĩa to lớn trong điều trị u não và các bệnh lý sọ não, và phát triển rộng rãi trên toàn thế giới như: Mỹ, Thụy Điển, Trung Quốc, Singapo, Pháp, Thái Lan, Hungary, Anh, Việt Nam…Năm 2004, dựa trên nguyên lý hoạt động dao gamma cổ điển, các nhà khoa học Hoa Kỳ đã chế tạo ra hệ thống dao gamma quay (Rotating Gamma Knife).
Từ tháng 7 năm 2007, lần đầu tiên ở Việt Nam, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai đã ứng dụng thành công hệ thống xạ phẫu dao gamma quay để điều trị cho các bệnh nhân sọ não và bệnh lý sọ não.
Hệ thống RGK ART 6000 của Hoa Kỳ là một trong những hệ thống dao gamma quay hiện đại và tiên tiến nhất hiện nay. Đây là phương pháp can thiệp không xâm nhập, thời gian nằm viện ngắn hơn, rất ít biến chứng nặng, không đòi hỏi phải bất động lâu như trong phẫu thuật mổ mở.
Xạ phẫu bằng gamma quay có nhiều ưu điểm vượt trội so với nhiều phương pháp, đó là:
Ưu điểm về kỹ thuật:thay vì mũ cố định nặng nề như các thế hệ máy cổ điển là hệ thống collimator quay quanh đầu bệnh nhân, giảm từ 201 nguồn Co-60 xuống còn 30 nguồn. Bên cạnh đó là hệ thống định vị tự động hoá có độ chính xác cao giúp cho việc điều trị thuận tiện, an toàn, chính xác và hiệu quả. Hệ thống ống định hướng có lá chắn: không gian điều trị ở mức đóng khi không điều trị, đạt liều tối đa cho u, tối thiểu cho mô não lành xung quanh, giảm thiểu tối đa sự tán xạ ra môi trường xung quanh
Nhiều u não và bệnh lý sọ não có thể điều trị được bằng dao gamma quay (RGK), bao gồm các u nguyên phát và di căn như: u màng não, u tuyến yên, u sọ hầu, các u lành vùng nền sọ, u tuyến tùng, các u dây thần kinh sọ, u tế bào hình sao, dị dạng động tĩnh mạch... Đặc biệt những u ở vị trí sâu và nguy hiểm như u thân não, xạ phẫu dao gamma quay là một lựa chọn tối ưu. Hơn thế nữa RGK còn có thể chỉ định điều trị cho các trường hợp chống chỉ định trong phẫu thuật mổ mở, bệnh nhân lớn tuổi hay quá nhỏ tuổi, tổn thương còn lại hoặc tái phát sau phẫu thuật, xạ trị, bệnh nhân từ chối phẫu thuật mổ mở.
Từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 8 năm 2011, trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu đã điều trị cho 1600 bệnh nhân u não và các bệnh lý sọ não trong đó: Tuổi trung bình: 42,6 tuổi, tuổi thấp nhất là 4, cao nhất là 91 tuổi. Tỉ lệ nam/nữ là:1/1,08. U tuyến yên chiếm tỉ lệ: 19,8%, u màng não:18,3%, dị dạng động tĩnh mạch (AVM): 16,7%, u dây thần kinh VIII: 8,7%, ung thư di căn não: 7,5%; u sọ hầu: 5,0%, u tuyến tùng: 3,5%, u máu thể hang: 6%, u tế bào hình sao: 5,2%, u nguyên bào tủy: 2,9%, u màng não thất: 2,6%, các loại u khác chiếm tỷ lệ 3,8%. U trên lều chiếm 92,1%, u dưới lều chiếm 7,9% trong đó u thân não 5,2%, u tiểu não 2,7%. Thể tích khối u não trung bình thấp nhất là 0,6cm³, lớn nhất là 27,6cm³, trung bình chung là 6,2 ± 4,6 cm³. Liều xạ phẫu trung bình cho các bệnh u tuyến yên là 12,4Gy, u màng não: 18,8 Gy, AVM: 18 Gy, u dây thần kinh VIII: 14,6 Gy, K di căn não: 18,2Gy, u sọ hầu: 12,8 Gy, u tuyến tùng: 16,3Gy, u máu thể hang: 17,5Gy, u tế bào hình sao: 14,6Gy, u nguyên tủy bào: 16,1Gy, u màng não thất: 16,3Gy, các loại u khác: 15Gy.
Hầu hết các trường hợp đều có cải thiện triệu chứng lâm sàng tốt lên rõ rệt. Triệu chứng cơ năng cải thiện bắt đầu sau điều trị 1 tháng chiếm 80,2%, trong đó cải thiện hoàn toàn triệu chứng: 20,2%, cho đến tháng thứ 36 triệu chứng cơ năng cải thiện chiếm tới 100%, trong đó hết hoàn toàn triệu chứng: 94%; Kích thước khối u giảm dần theo thời gian, bắt đầu ở tháng thứ 3, cho đến tháng thứ 36 kích thước tổn thương giảm còn 0,2cm.Kết quả điều trị cho 1600 bệnh nhân và theo dõi sát trong và sau xạ phẫu cho thấy đây là phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả, không có trường hợp nào có biến chứng nặng hoặc tử vong.
Cho đến nay nhiều nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực chưa có hệ thống xạ phẫu bằng dao gamma quay. Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu-Bệnh viện Bạch Mai là một trong số rất ít các nước trên thế giới, ngoài Hoa Kỳ đã ứng dụng thành công kỹ thuật xạ phẫu này để điều trị cho hàng nghìn bệnh nhân u não và bệnh lý sọ não, và đã cứu sống được rất nhiều bệnh nhân, đưa họ về với cuộc sống đời thường, về với công việc hàng ngày. Rất nhiều bệnh nhân đã có chất lượng cuộc sống tốt hơn, kéo dài cuộc sống một cách có ý nghĩa hơn sau khi được xạ phẫu bằng hệ thống dao gamm quay.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
1. U tuyến yên
Bệnh nhân Trần B. D, nữ 33 tuổi, vào viện vì đau đầu, nhìn mờ
Chụp MRI sọ não chẩn đoán u tuyến yên, chèn ép dây giao thoa thị giác,
Chỉ định xạ phẫu bằng dao gamma quay, liều 14Gy
2. U màng não
Bệnh nhân Nguyễn Đ, T, nam, 32 tuổi
Chẩn đoán: U màng não
Chỉ định: xạ phẫu bằng dao gamma quay, liều 20 Gy
3. Gliome thân não
3.1. Bệnh nhân Đinh T , V, 52 tuổi, vào viện vì đau đầu nhiều, nôn, tê yếu nửa người trái, chẩn đoán u thân não. Bệnh nhân được xạ phẫu Dao gamma quay liều 14 Gy. Trước điều trị: u thân não, kích thước 3,9 x 3,1 x 3,9 cm, u thân não chèn ép gây yếu tê nửa người trái, đau đầu nhiều, không có khả năng điều trị bằng phương pháp khác.
3.2. BN Hồ Viết Th, nam, 46 t vào viện vì yếu ½ người (P), CĐ Cavernoma thân não, xạ phẫu dao gamma quay, liều 16Gy
4. Tổn thương não do ung thư di căn
Bệnh nhân Nguyễn V. Th, nam, 50 tuổi,
Chấn đoán: Ung thư phổi di căn não
Chỉ định: RGK liều 18Gy
5. Lymphoma ở não
Bệnh nhân Nguyễn Thị Hồng L, nữ, 34 tuổi
Chẩn đoán: NH Lymphoma đã điều trị hóa chất 6 đợt, xạ gia tốc 60Gy
Chỉ định: RGK liều 14 Gy
Trước điều trị, bệnh nhân đau đầu nhiều, kích thước u: 2x3 cm, bệnh nhân đã được điều trị hóa chất 6 đợt, xạ gia tốc 60Gy. Sau xạ phẫu RGK liều 14 Gy, lâm sàng cải thiện, giảm đau đầu, tổn thương không còn.
PGS. TS. Mai Trọng Khoa, ThS. Nguyễn Quang Hùng- Trung tâm Y học hạt nhân & Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai