Đa hình gen CYP2C19 và thực hành lâm sàng
ThS.BSNT. Bùi Bích Mai, GS.TS. Mai Trọng Khoa, PGS.TS. Phạm Cẩm Phương (Bài tổng hợp)
Đơn vị Gen – Tế bào gốc, TT Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai
1.Hệ thống Cytochrome 450 và gen CYP2C19
- Cytochrome 450 (hay còn gọi tắt là CYP450): Là một nhóm các enzyme có chứa heme nằm trên màng của hệ thống lưới nội sinh chất (endoplasmic reticulum) của tế bào gan.
- Vai trò chủ yếu:
+ Chuyển hóa thuốc
+ Tương tác thuốc
- Gen CYP2C19 (Cytochrome P450 Family 2 Subfamily C Member 19 – gen tổng hợp protein thuộc nhóm Cytochrome P450- nhóm 2 – dưới nhóm C – thành viên số 19): tổng hợp các enzyme nằm trong hệ thống Cytochrome 450.
Family | Subfamily | Member |
CYP1 | A | 1A1, 1A2 |
CYP2 | A | 2A6 |
B | 2B6 |
C | 2C8, 2C9, 2C10, 2C18, 2C19 |
D | 2D6 |
E | 2E1 |
CYP3 | A | 3A3, 3A4, 3A5, 3A7 |
- Các enzym này có các kiểu gen khác nhau nên có thể chia thành 3 nhóm kiểu hình:
Kiểu gen | Kiểu hình- Tốc độ chuyển hóa | Tác dụng thuốc |
wt/wt (CYP2C19 1*/1*) | Chuyển hóa thuốc nhanh | Kém |
wt/m1 | Chuyển hóa thuốc trung bình | - |
wt/m2 |
m1/m1 | Chuyển hóa thuốc chậm | Mạnh |
m2/m2 |
m1/m2 |
CYP2C19*17 | Chuyển hóa thuốc rất nhanh | Rất kém |
(Trong đó: wt: bình thường; m- mutation: đột biến)
2.Chỉ định xét nghiệm và ý nghĩa
Xét nghiệm tính đa hình gen CYP2C19, nhằm dự báo khả năng đáp ứng của bệnh nhân đối với một số nhóm thuốc chuyển hóa qua enzyme CYP2C19 như:
+ Clopidogrel
+ Thuốc ức chế bơm proton (PPi)
+ Thuốc chống trầm cảm
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh kiểu gen (sự tổ hợp 2 alen) của CYP2C19 có liên quan đến khả năng đáp ứng của bệnh nhân đối với một số thuốc được chuyển hóa qua enzyme này, tiêu biểu trong số đó là clopidogrel, các thuốc ức chế bơm proton, thuốc chống trầm cảm.
Clopidogrel là thuốc dự phòng nguyên phát các rối loạn do nghẽn mạch huyết khối (nhồi máu cơ tim, đột quỵ, bệnh động mạch ngoại biên); kiểm soát và dự phòng thứ phát ở các bệnh nhân mới bị các trường hợp trên. Các đột biến giảm chức năng enzyme làm giảm nồng độ chất hoạt hóa của clopidogrel trong máu, từ đó làm gia tăng các biến cố tim mạch tái phát ở bệnh nhân sau khi sử dụng thuốc. Nhiều báo cáo đã cho thấy tần số hai alen *2 và *3 ở quần thể người châu Á khá cao (lần lượt là 30% và 10%, trong khi ở các chủng tộc khác, tần số alen *2 khoảng 10-20%, alen *3 dưới 1%), là nguyên nhân của hiện tượng người châu Á có tỷ lệ kháng clopidogrel, gia tăng biến cố tim mạch tái phát ở mức rất cao.
Các thuốc ức chế bơm proton (Proton-pump inhibitor - PPI) được sử dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng, có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng gây ra do tăng tiết axit dịch vị. Những bệnh nhân mang alen tăng hoạt tính enzyme (CYP2C19*17) sẽ có khả năng cao thất bại khi điều trị bằng các thuốc ức chế bơm proton, khi sử dụng thuốc cần tăng liều 50-100% (theo khuyến cáo của Quy ước Thực hành Lâm sàng Dược Di truyền). Các khuyến cáo cho thấy cần chú ý khảo sát kiểu hình CYP2C19 trong trường hợp lớt, GERD kháng trị hoặc nhiễm HP thất bại sau 2 lần điều trị.
Vậy xác định kiểu gen CYP2C19 trước khi điều trị có thể giúp tối ưu hóa liều PPI để đạt được kết quả điều trị tốt hơn. Điều này sẽ giúp trong việc quản lý tốt hơn các bệnh nhân GERD, viêm dạ dày, loét dạ dày và loét tá tràng.
Các thuốc chống trầm cảm được chuyển hóa qua nhiều cytochrome P450 như CYP2D6, CYP2C19. Những bệnh nhân mang alen làm tăng hoạt tính enzyme của CYP2C19 (dạng *17) có nhiều khả năng thất bại khi được điều trị bằng những thuốc này.
Tài liệu tham khảo
1.Zhu WY, Zhao T, et al. (2016). Association of CYP2C19 Polymorphisms with the Clinical Efficacy of Clopidogrel Therapy in Patients Undergoing Carotid Artery Stenting in Asia. Scientific Reports 6(25478).
2. Saeed LH, Mayet AY (2013). Genotype-Phenotype Analysis of CYP2C19 in Healthy Saudi Individuals and its Potential Clinical Implication in Drug Therapy. Int J Med Sci 10(11): 1497-1502.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn