Cơ chế nằm đằng sau sự liên kết giữa nhiễm H. pylori và ung thư dạ dày chưa thật chắc chắn, nhưng một giả thiết cho rằng khi H. pylori gây viêm dạ dày ở vùng thân vị có chức năng tiết acid, có thể sẽ châm ngòi cho hiện tượng viêm và giảm acid dịch vị. Nếu tình trạng này trở nên nghiêm trọng, có thể sẽ xảy ra ung thư dạ dày. Emad El-Omar, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, tin rằng độ nặng của đáp ứng với nhiễm khuẩn là hệ quả của sự biến thiên giữa các cá thể về khả năng sản sinh LI-1b, một chất ức chế mạnh sự tiết acid dạ dày vốn được kích thích bởi sự hiện diện của H. pylori.
Trong nghiên cứu nói trên, El-Omar và cộng sự đã phân tích các mẫu DNA của 149 thân nhân bậc 1 của các BN ung thư ở tây Scotland, 393 BN ung thư dạ dày và 430 người chứng. Theo nhóm nghiên cứu, các gen can dự vào sản xuất IL-1b rất đa dạng. Họ khám phá ra có hai dạng gen đặc hiệu (IL-1B-31T và IL-IRN*2) kết hợp với sự giảm tiết acid và teo niêm mạc dạ dày, và hai kiểu gen này làm tăng nguy cơ ung thư (Nature 2000; 404:398-402). Tuy đột biến gen tự nó không gây ung thư, nhưng El-Omar cho rằng nó ảnh hưởng đến những giai đoạn khá sớm của bệnh mà nếu không can thiệp thường sẽ dẫn đến ung thư. Do đó, phát hiện này giúp tăng khả năng tầm soát những dân số có nguy cơ để phát hiện những người cần thiết được điều trị thanh toán H. pylori.
Chẩn đoán ung thư trong 30 phút-
Các nhà khoa học đã phát triển một kỹ thuật có thể phát hiện được trong vòng 30 phút các tế bào đang nhân đôi - tức các tế bào có tiềm năng ung thư - trong mẫu mô đông lạnh được lấy trên bệnh nhân. Công trình này vừa mới được công bố trên một tạp chí sinh học tế bào của Hoa Kỳ (Nat Cell Biol- 2000; 2: 244-245).
Các xét nghiệm trước đây để phát hiện tế bào ở pha \"S\" (thời kỳ tổng hợp DNA) trong chu trình tế bào trên các mẫu bệnh phẩm phải cần đến kỹ thuật đánh dấu trước mổ bằng chất phóng xạ hoặc bằng tiền chất DNA dạng halogen. Phương pháp mới, do Anthony Mills và cộng sự (Cambridge, Anh) thiết kế, cho phép \"đánh giá tần suất các tế bào pha S trong các mô trong khi bệnh nhân vẫn còn nằm trong phòng mổ\".
Mills và cộng sự đã ủ các mẫu mô được làm tan băng nhanh với dNTP và tiền chất DNA đánh dấu (digoxygenin-11-dUTP). Chỉ sau 15 phút, có thể phát hiện tiền chất được đánh dấu trong nhân tế bào bằng cách dùng các kháng thể gắn huỳnh quang kháng-digoxygenin. Nhân tế bào pha S được thấy ở đáy các khe niêm mạc đại tràng bình thường và ở khắp nơi trong mẫu bệnh phẩm ung thư đại tràng. Vì thế, các tác giả cho rằng \"có thể phân biệt các tổn thương ác tính với mô bình thường dựa vào số lượng các tế bào ở pha S\".
Thuốc kháng histamin ảnh hưởng khả năng lái xe cũng như rượu
Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ báo cáo rằng các thuốc kháng histamin có tác dụng an thần có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe hơn cả rượu, ngay cả khi người dùng thuốc không hề thấy buồn ngủ.
Trong một bài báo được đăng trên tạp chí Annals of Internal Medicine mới đây, John Weiler (đại học Iowa, Hoa Kỳ) và cộng sự đã thực hiện một thử nghiệm gồm 4 điều trị, được thiết kế bắt chéo, trên 40 tài xế ở độ tuổi 25-44 thường bị viêm mũi dị ứng theo mùa. Mỗi đối tượng được dùng môt liều fexofenadin (60 mg), diphenhydramin (50 mg), rượu (nồng độ chừng 1%) hoặc giả dược. Họ được kiểm tra khả năng lái xe trong 1 giờ trên cabin điện tử.
Sau khi dùng diphenydramin, điểm số về ý thức chạy nối đuôi (0.877) của tài xế thấp hơn rõ rệt so với sau khi dùng fexofenadin (0.915), rượu (0.920) và giả dược (0.906). Họ cũng giữ khoảng cách tối thiểu với xe phía trước ngắn hơn (khoảng cách này không tính bằng độ dài mà tính bằng giây, vì phụ thuộc tốc độ đang chạy của mỗi tài xế), và số lần lấn đường sang làn xe ngược chiều cũng nhiều gấp đôi so với sau khi uống fexofenadin hoặc giả dược. Tuy vậy, triệu chứng buồn ngủ do họ tự báo là một chỉ điểm kém về ảnh hưởng đến khả năng lái xe, vì trong số 5 vụ đụng xe chỉ có một vụ xảy ra trong tứ phân vị thời gian buồn ngủ nhiều nhất. J. Weiler kết luận: \"Số liệu này chỉ ra rằng không nên lái xe khi dùng diphenydramin và không nên dựa vào cảm giác chủ quan để cho rằng khả năng lái xe bị ảnh hưởng.\" Chưa rõ kết quả kiểm tra trên cabin điện tử giống với thực tế đường trường đến mức nào, nhưng dù sao thuốc kháng histamin không gây an thần vẫn được chuộng hơn, tuy rằng hiện nay tại Hoa Kỳ những thuốc này vẫn phải bán theo đơn. (Ann Int Med 2000; 132:354-363).
Dùng paracetamol thường xuyên dễ gây xuất hiện triệu chứng bệnh suyễn
Dùng paracetamol hàng ngày hoặc hàng tuần hay gây triệu chứng suyễn và viêm mũi ở người lớn. Ðó là nhận xét của Seif Shaheen và cộng sự trong một công trình nghiên cứu so sánh paracetamol và aspirin trên 664 BN suyễn và 910 người chứng. Người ta đã biết, ở loài vật, paracetamol làm giảm nồng độ chất chống oxy-hóa glutathion ở phổi. Chất này có tác dụng hạn chế viêm đường hô hấp trong bệnh suyễn ở người. Trong nghiên cứu trên, tỉ suất nguy cơ kết hợp với triệu chứng suyễn khi dùng paracetamol hàng ngày là 2.38 (KTC 95%: 1.22-4.64), khi dùng hàng tuần là 1.79 (KTC 95%: 1.21-2.65). Trong số BN suyễn, càng dùng nhiều paracetamol thì triệu chứng càng nặng. Không thấy sự kết hợp này khi dùng aspirin thường xuyên (Thorax 2000; 55:266-170). Kết quả của một nghiên cứu bệnh-chứng như trên chưa đủ để khẳng định vấn đề, song nó kích thích việc tiến hành những nghiên cứu cơ bản, lâm sàng và dịch tễ để làm sáng tỏ. Hơn nữa, có ý kiến cho rằng bài báo rất hấp dẫn nhưng chưa giải tỏa được nhiều hoài nghi vì không rõ các yếu tố gây nhiễu có được đánh giá đúng mức chưa.
Gen p53 bất thường: một dấu hiệu tiên lượng ung thư tuyến tiền liệt
Việc phát hiện bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt xâm lấn là một thách thức lớn với các bác sĩ niệu khoa. Một nghiên cứu mới hiện nay gợi ý rằng những bất thường ở gen p53 ức chế khối u có thể là một dấu hiệu chỉ điểm độc lập hữu ích. David Quinn, người đứng đầu nhóm nghiên cứu ở Sydney (Úc), cho rằng \"sự hiện diện của một đám tế bào duy nhất mang gen p53 bất thường sẽ làm tăng nguy cơ tái phát lên 6 lần\".
Nhóm nghiên cứu đã dùng một kháng thể đơn dòng để phát hiện sự tích tụ protein p53 bất thường trong nhân tế bào trên 263 mẫu phẫu tích cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt. Các tiêu bản ổ ung thư được cho điểm theo tỉ lệ nhân dương tính và theo số đám tế bào có p53 (\"đám\" ở đây được qui định là -12 tế bào trong một vi trường định sẵn). Kết quả được phân tầng và so sánh với các yếu tố tiên đoán lâm sàng-giải phẫu bệnh và tỉ lệ tái phát và tử vong. (Cancer Res 2000; 60: 1585-1594).
David Quinn cho rằng: \"Tăng điểm số p53 sẽ tăng nguy cơ tái phát và tử vong, đặc biệt là trước khi mổ đã dùng liệu pháp tân bổ trợ hoặc hormon. Ðiều đó có nghĩa là khi có p53 bất thường, tế bào ung thư dễ di căn vi thể và cũng kháng với hormon\". Vì thế, các tác giả đề nghị rằng những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng sau này bên bỏ qua việc xạ trị hoặc sử dụng hormon mà nên \"dùng thẳng các liệu pháp diệt tế bào có p53 bất thường\".
So sánh đi bộ với vận động mạnh trong dự phòng bệnh mạch vành ở phụ nữ
Vai trò của đi bộ, so với vận động mạnh về thể lực, trong việc đề phòng bệnh mạch vành vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau, và dữ liệu ở lĩnh vực này trên phụ nữ lại càng tản mạn.
Chính vì thế, JoAnn E. Manson và cộng sự (Ðại học Havard, Boston, Hoa Kỳ) đã khảo sát tiền cứu sự kết hợp giữa điểm số của tổng hoạt động thể lực, đi bộ, và vận động nặng với xuất độ của các tai biến mạch vành trên 72488 nữ điều dưỡng từ 40 đến 65 tuổi trong năm 1986 (đây là một phần của nghiên cứu Nurses- Health Study được khởi xướng vào năm 1976 tại Hoa Kỳ). Những người tham gia được chẩn đoán không có bệnh tim mạch hoặc ung thư vào thời điểm nhận vào nghiên cứu và đã điền đầy đủ chi tiết vào bảng câu hỏi về hoạt động thể lực. Trong 8 năm theo dõi, các tác giả phát hiện được 645 trường hợp tai biến mạch vành (nhồi máu cơ tim không tử vong hoặc chết vì bệnh mạch vành).
Kết quả cho thấy có một sự kết hợp rõ ràng theo tỉ lệ nghịch giữa hoạt động thể lực và nguy cơ tai biến mạch vành. Ðơn vị sử dụng để đánh giá hoạt động thể lực là MET (metabolic-equivalent score) /tuần (1 MET bằng số nhu cầu năng lượng/kg cân nặng/1 giờ vận động chia cho nhu cầu năng lượng cần thiết/kg/1 giờ khi nghỉ). So với phụ nữ có MET thuộc ngũ phân vị (quintile) thấp nhất (giả định có nguy cơ tương đối RR=1), phụ nữ ở những nhóm MET (ngũ phân vị) cao hơn thì nguy cơ tương đối tai biến mạch vành (đã hiệu chỉnh theo tuổi) lần lượt là 0.77, 0.65, 0.54 và 0.46 (P xu hướng < 0.001). Trong phân tích đa biến, khuynh độ nghịch vẫn rất rõ (nguy cơ tương đối của phụ nữ ở bốn nhóm ngũ phân vị trên là 0.88, 0.81, 0.74, và 0.66 so với phụ nữ có MET thuộc nhóm ngũ phân vị thấp nhất; P xu hướng = 0.002). Ði bộ có mối tương quan nghịch với nguy cơ tai biến mạch vành; phụ nữ ở nhóm đi bộ nhiều nhất (đi rảo bước tương đương 3-4 giờ/tuần) có nguy cơ tương đối đa biến là 0.65 (khoảng tin cậy 95%: 0.47-0.91) so với phụ nữ ít đi bộ. Thường xuyên vận động mạnh (- 6 MET/tuần) có tương quan với giảm nguy cơ tương tự (30 đến 40%). Phụ nữ tĩnh tại nếu hoạt động nhiều từ tuổi trung niên trở đi có nguy cơ tai biến mạch vành thấp hơn so với bạn đồng trang lứa nhưng vẫn ít đi lại vận động.
Theo kết luận của các tác giả, những dữ liệu tiền cứu này cho thấy đi bộ rảo bước và vận động mạnh có mối tương quan vững chắc với giảm xuất độ tai biến mạch vành ở phụ nữ.----
Theo N Engl J Med 1999;341:650-8 (NT)
Một sách lược sử dụng kháng sinh để ngừa sự trỗi dậy của trực khuẩn kháng thuốc
Vì e ngại các trường hợp nhiễm khuẩn nặng xảy ra trong các khoa săn sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (SSÐBSS), nên các kháng sinh phổ rộng thường được sử dụng sớm theo kinh nghiệm. Cách này thường gây chọn lọc các vi khuẩn kháng thuốc. Mới đây, một nhóm tác giả tại Hà Lan đã nghiên cứu xem liệu có thể chận đứng sự xuất hiện các chủng kháng thuốc bằng cách thay đổi các phác đồ dùng kháng sinh theo kinh nghiệm nhằm tháo gỡ áp lực thuốc có thể chọn lọc các vi khuẩn kháng thuốc.
P. de Man và cs. đã chọn hai đơn vị SSÐBSS giống nhau để thử áp dụng các phác đồ kháng sinh khác nhau. Ở đơn vị A, penicillin G và tobramycin được sử dụng trong những trường hợp nhiễm khuẩn huyết khởi phát sớm, flucloxacillin và tobramycin được sử dụng cho nhiễm khuẫn huyết khởi phát muộn, và không dùng kháng sinh nhóm b-lactam phổ rộng, như amoxillin và cefotaxim. Ở đơn vị B, dùng phác đồ điều trị theo kinh nghiệm là amoxillin và cefotaxime truyền tĩnh mạch. Sau 6 tháng nghiên cứu, hai đơn vị đổi các phác đồ sử dụng cho nhau. Bệnh nhi được theo dõi vi khuẩn học bằng cách cấy bệnh phẩm lấy ở trực tràng và đường hô hấp hàng tuần.--
Mỗi đơn vị SSÐBSS đã nhận 218 trẻ sơ sinh nhập viện. Có 3 trường hợp phân lập được trực khuẩn kháng thuốc trong số trẻ sơ sinh đang được điều trị phác đồ penicillin-tobramycin, so với 41 trường hợp khi điều trị bằng phác đồ amoxillin-cefotaxim (P < 0.001). Nguy cơ tương đối để xuất hiện các chủng kháng thuốc khi điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm với amoxillin-cefotaxim trên 1000 bệnh nhân-ngày cao hơn 18 lần so với khi điều trị penicillin-tobramycin (KTC 95%: 5.6-58.0). Enterobacter cloacae là trực khuẩn chiếm ưu thế ở trẻ sơ sinh được điều trị với phác đồ amoxillin-tobramycin, trong khi Escherichia coli chiếm ưu thế ở trẻ được điều trị với penicillin-tobramycin. Khi đổi chéo các phác đồ sử dụng ở hai đơn vị SSÐBSS thì cũng thấy kết quả tương tự.
Từ đó, các tác giả đã cho rằng, trong trường hợp nhiễm khuẩn sơ sinh, khi sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm mà không chờ kết quả nuôi cấy vi khuẩn thì nên tránh dùng amoxillin và cefotaxim để hạn chế sự xuất hiện chọn lọc các chủng vi khuẩn kháng thuốc.
Theo de Man P. và cs. \"An antibiotic policy to prevent emergence of resistant bacilli.\"
Lancet 2000; 355:973-978. (NT)
Rút khỏi thị trường dược phẩm trị tiểu đường RESULIN (troglitazone)
Hôm thứ ba 21 tháng 3, theo yêu cầu Cục Quản Lý Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA), hãng dược phẩm Warner-Lambert đã rút khỏi thị trường thuốc trị tiểu đường troglitazone (Rezulin-) vì có khả năng liên quan đến suy gan nặng trên một số bệnh nhân. Tuy nhiên, FDA cũng lưu ý bệnh nhân không nên ngưng dùng Rezulin hoặc các trị liệu khác tiểu đường một cách đột ngột mà chưa trao đổi với bác sĩ điều trị về một liệu pháp thay thế.
Hiện có khoảng 500.000 bệnh nhân đang dùng Rezulin. Doanh thu của thuốc này trong năm 1997 là 625 triệu USD và năm 1998 lên đến 748 triệu USD.
Theo phát ngôn viên của FDA thì Rezulin có liên quan đến 63 trường hợp tử vong và 90 trường hợp suy gan đã được xác nhận. Dược phẩm này được lưu hành trên thị trường Hoa Kỳ từ giữa năm 1997, nhưng sau đó một thời gian ngắn, đã có nhiều báo cáo về biến chứng suy gan trong các bệnh nhân dùng thuốc.
Quyết định thu hồi Rezulin dựa trên việc xét lại hồ sơ về độ an toàn của Rezulin và 2 dược phẩm trị tiểu đường týp 2 khác là roziglitazone (Avandia-) và ploglitazone (Actos-), qua đó FDA đã kết luận là Rezulin có độc tính trên gan cao hơn so với 2 loại thuốc kia. Theo FDA thì cả 2 dược phẩm Actos của Eli Lilly và Avandia của SmithKline Beecham được cho phép lưu hành từ năm ngoái đều có cùng lợi ích như Rezulin nhưng không có cùng độc tính.
Theo BS. Janet Woodcock, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Kiểm nghiệm thuốc của FDA thì tài liệu nghiên cứu về độ an toàn của Rezulin so sánh với các thuốc trị tiểu đường tương tự có thể dùng để thay thế cho thấy: hiện nay việc tiếp tục dùng Rezulin có thể đưa đến những nguy cơ không thể chấp nhận được cho bệnh nhân.
Tại Nhật, hôm 22 tháng 3, hãng Sankyo cũng đã tuyên bố rút khỏi- thị trường Nhật dược phẩm chứa troglitazone, được bán dưới tên đặc chế Noscal-.
DS. HUỲNH VĂN NHIỆM (Theo Reuters Health 22.3.2000)
PROPULSID (Cisapride): sắp rút khỏi thị trường
Từ 14/7/2000 tới, Hãng dược phẩm Janssen sẽ ngưng bán dược phẩm trị ợ nóng PROPULSiD- (Cisapride) trên thị trường Hoa Kỳ (ở Việt Nam có tên thương mại là PREPULSID). Thông báo của FDA hôm 23/3/2000 đã ghi nhận 341 báo cáo về loạn nhịp tim, trong đó có 80 báo cáo tử vong có liên quan đến Propulsid. Theo FDA, hầu hết những trường hợp đều xảy ra ở những bệnh nhân đã có dùng các dược phẩm khác hoặc có những bệnh tìềm ẩn làm tăng nguy cơ loạn nhịp liên quan với cisapride.
Quyết định rút khỏi thị trường dược phẩm là tự nguyện và thời hạn hiệu lực được trù định để bệnh nhân và bác sĩ có thời gian quyết định về- cách điều trị. Các bệnh nhân hiện được kê toa cho dùng Propulsid nên liên hệ ngay với các thầy thuốc để thay thế thuốc khác.
Propulsid được dùng để trị chứng ợ nóng nghiêm trọng về đêm ở những bệnh nhân bị bệnh hồi lưu dạ dày-thực quản mà không đáp ứng với các liệu pháp khác. Từ khi được phép lưu hành năm 1993, nội dung tài liệu hướng dẫn sử dụng thuốc này đã được điều chỉnh nhiều lần để nêu bật những tai biến có thể xảy ra (Thời Sự Y Dược Học cũng đã từng thông tin trên mục Dược Cảnh Giác ở những số trước)
FDA khuyến cáo các bác sĩ- đang điều trị cho bệnh nhân trong tình trạng bệnh rất nặng và tin rằng việc dùng cisapride mang lại lợi ích cho bệnh nhân cao hơn là nguy cơ có thể xảy ra thì nên tiếp xúc với hãng Janssen.
Hiện công ty Titusville ở New Jersey vẫn tiếp tục phân phối thuốc cisapride cho các bệnh nhân có tình trạng lâm sàng đặc biệt đáp ứng các tiêu chuẩn dành chọ một qui trình điều trị có giới hạn.
Vì có quyết định thu hồi nói trên, nên FDA cũng đã huỷ bỏ một buổi họp dự định tổ chức vào ngày 12 tháng 4 này với mục đích tham vấn cho công chúng- các cách thức nhằm giảm bớt những tác dụng phụ của cisapride .
DS HUỲNH VĂN NHIỆM