Ca lâm sàng: Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư vú chuyển giai đoạn muộn vì dịch Covid

Ngày đăng: 17/02/2022 Lượt xem 2051

Ca lâm sàng: Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư vú chuyển giai đoạn muộn vì dịch Covid

GS. TS. Mai Trọng Khoa, ThS, BSCK II. Thiều Thị Hằng, PGS. TS. Phạm Cẩm Phương,

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai

Ung thư vú và ung thư cổ tử cung là hai loại ung thư phổ biến gây tử vong hàng đầu ở nữ giới. Theo tổ chức ghi nhận ung thư thế giới GLOBOCAN 2020, hàng năm, trên thế giới có hơn 2,2 triệu người được chẩn đoán mắc ung thư vú và khoảng người 680.000 người tử vong vì căn bệnh này. Tại Việt Nam, ung thư vú chiếm 25,8% bệnh ung thư ở nữ giới với hơn 21.555 ca mắc mới và 9.345 ca tử vong.

Ung thư vú là một trong số các loại ung thư có khả năng sàng lọc phát hiện từ khi bệnh ở giai đoạn rất sớm và có tỷ lệ điều trị khỏi bệnh rất cao nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn này. Ngược lại nếu chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn muộn thì việc điều trị sẽ khó khăn, chi phí điều trị cao và hiệu quả sẽ thấp hơn nhiều. Việc sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú được thực hiện rất nhanh chóng và với chi phí sàng lọc rất thấp. Người bệnh được sàng lọc bằng phương pháp cơ bản qua thăm khám lâm sàng, siêu âm vú, chụp Xquang tuyến vú và kết hợp xét nghiệm tế bào học, sinh thiết kim nhỏ. Thông thường thời gian tiến hành sàng lọc cơ bản sẽ có kết quả trong vòng 1- 2 giờ.

Trong thời gian xảy ra đại dịch COVID vừa qua, chúng tôi ghi nhận có nhiều trường hợp người bệnh đến khám và phát hiện ung thư vú khi bệnh tiến triển sang giai đoạn muộn vì e ngại và sợ không đi khám, sàng lọc để được chẩn đoán và điều trị kịp thời khi bệnh ở giai đoạn sớm gây ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.

Sau đây là ca lâm sàng trường hợp người bệnh được chẩn đoán và điều trị khi bệnh chuyển giai đoạn muộn do điều kiện gia đình và do e ngại dịch bệnh COVID.

Bệnh nhân V. T. O. 45 tuổi, quê ở Hải Dương.

Bệnh nhân tự sờ thấy có u ở vú phải từ trước đó nhưng đến tháng 6 năm 2021 chị mới đi khám tại bệnh viện K. Tại đây bệnh nhân được khám và chẩn đoán xác định là ung thư vú phải di căn hạch nách phải. Nhưng do tình hình dịch bệnh COVID và điều kiện gia đình thời điểm đó nên bệnh nhân đã trì hoãn không không đi khám nên không được điều trị bệnh ung thư vú.

Dưới đây là kết quả khám bệnh thời điểm tháng 6 năm 2021 như sau:

- Siêu âm: Có hình ảnh khối u vú phải vị trí 12h cách núm vú 3cm, kích thước 2,3x1,4cm, bờ không rõ, thâm nhiễm mô xung quanh. trong có nhiều vi vôi hóa ác tính, BIRAD 5. Hạch nách phải mất cấu trúc, kích thước 1,6 cm.

3659 anh 1

Hìm ảnh siêu âm vú (tháng 6/2021): Hình ảnh khối u vú phải vị trí 12h cách núm vú 3cm, kích thước 2,3x1,4cm, bờ không rõ, thâm nhiễm mô xung quanh. trong có nhiều vi vôi hóa ác tính, BIRAD 5 (mũi tên chỉ).

Hạch nách phải mất cấu trúc, kích thước 1,6 cm.

 

- Xquang vú: Hình ảnh khối mờ 1/2 trên vú phải, bờ không rõ, tua gai, co kéo nhu mô xung quanh, trong có nhiều vi vôi hóa đa hình thái. BIRAD 5, hạch cản quang hố nách phải.

- Hình ảnh sinh thiết mô bệnh học: Ung thư biểu mô thể ống xâm nhập, NOS.

ER âm tính; PR(1+); Her2 (2+), Ki67 (+ 100%).

Chẩn đoán xác định: Ung thư vú phải di căn hạch nách phải, T2N2Mo giai đoạn IIIa.

Đến tháng 1 năm 2022 bệnh nhân thấy u vú phải, vùng nách phải sưng to nhiều, đau vùng vú, nách phải, cột sống chị đến khám tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai.

Tại đây bệnh nhân được thăm khám lâm sàng và phát hiện thấy có tổn thương khối u lớn 1/2 trên vú phải, thâm nhiễm da vùng u, kém di động kèm theo có nhiều hạch hố nách phải, chắc, kém di động. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm đánh giá khối u vú nguyên phát, kiểm tra toàn thân đánh giá giai đoạn bệnh để lập kế hoạch điều trị bằng siêu âm, Xquang và chụp PET/CT toàn thân, xét nghiệm máu...

Sau đó, do tình hịch dịch bệnh Covid nên bệnh nhân ở nhà, không đi khám bệnh.

Kết quả khám bệnh tại thời điểm tháng 1 năm 2022 (sau 6 tháng).

- Siêu âm: Hình ảnh khối u vú phải 1/2 trên giảm âm không đều, kích thước lớn vượt quá trường đo, kích thước 4,3x 4,2 cm, vùng lân cận ở vị trí 11h có nốt kích thước 1,6x1,2 cm thâm nhiễm da và tổ chức dưới da 1/2 trên. BIRAD 5. Hố nách phải có vài hạch kích thước lớn nhất 4,1x3,4 cm, mất cấu trúc rốn hạch, vôi hóa bên trong.

 

3659 anh 2

3659 anh 3

Hình ảnh siêu âm vú (tháng 1/2022): Hình ảnh khối u vú phải 1/2 trên giảm âm không đều, kích thước lớn vượt quá trường đo, kích thước 4,3x 4,2 cm, lân cận ở vị trí 11h có nốt kích thước 1,6x1,2 cm thâm nhiễm da và tổ chức dưới da 1/2 trên. BIRAD 5. Hố nách phải vài hạch kích thước lớn nhất 4,1x3,4 cm, mất cấu trúc rốn hạch, vôi hóa bên trong (mũi tên chỉ).

 

- Xquang vú: Hình ảnh khối u lớn vú phải 1/2 trên kích thước 4,6x3,0x5,0 cm, nốt lân cận 1,1 cm, bờ không đều, thâm nhiễm mỡ trước da vú. BIRAD 5.

3659 anh 4

3659 anh 5

Hình ảnh Xquang vú tháng 1/2022: Hình ảnh khối u lớn vú phải 1/2 trên kích thước 4,6x3,0x5,0 cm, nốt lân cận 1,1 cm, bờ không đều, thâm nhiễm mỡ trước da vú. BIRAD 5 (mũi tên chỉ).

- Kết quả PET/CT: Hình ảnh khối vị trí 1/2 trên vú phải và nốt lân cận kích thước 3,3x5,5 cm xâm lấn cơ ngực và da, tăng chuyển hóa FGD maxSUV 15,92.

Nhiều hạch hố nách phải, tăng chuyển hóa FDG, maxSUV 11,36.

Hình ảnh tổn thương xương đốt sống D11, maxSUV 3,4.

- Xét nghiệm máu: công thứ máu, chức năng gan thận bình thường

 

3659 anh 6

3659 anh 7

3659 anh 8

3659 anh 9

Kết quả chụp PET/CT tháng 1/2022 (mũi tên chỉ): Hình ảnh khối vị trí 1/2 trên vú phải và nốt lân cận kích thước 3,3x5,5 cm xâm lấn cơ ngực và da, tăng chuyển hóa FGD maxSUV 15,92.

Nhiều hạch hố nách phải, tăng chuyển hóa FDG, maxSUV 11,36.

Hình ảnh tổn thương xương đốt sống D11, maxSUV 3,4.

 Chẩn đoán xác định: ung thư vú phải di căn hạch nách phải, xương (T4cN2M1). Giai đoạn IV.

Như vậy sau 1 thời gian trì hoãn không đến khám bệnh, bệnh ung thư vú của bệnh nhân đã tiến triển, khối u vú to lên về kích thước, hạch nách lớn nhanh và có tổn thương di căn xương (di căn xa). Bệnh chuyển sang giai đoạn IV (giai đoạn cuối).

                Sau đó, bệnh nhân đã được tiếp nhận ngay vào điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai. Ở giai đoạn bệnh này chị sẽ được điều trị bằng hóa trị toàn thân trước và đánh giá sau các liệu trình để quyết định phương pháp điều trị tiếp theo.

                Hiện nay để thích ứng với tình hình dịch bệnh COVID và đảm bảo việc khám sàng lọc, chẩn đoán sớm và tiếp nhận điều trị người bệnh ung thư kịp thời, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh Mai luôn đảm bảo các biện pháp an toàn phòng dịch theo qui định và vẫn tiến hành khám, tiếp nhận người dân đến khám và điều trị 24/7. Người dân khi đi khám bệnh cần thực hiện đầy đủ biện pháp 5K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế) để đảm bảo an toàn phòng dịch.

 Nguồn: ungthubachmai.com.vn

Tin liên quan