Docetaxel kết hợp S-1 mang lại lợi ích sống thêm cho bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn III đã phẫu thuật
CN. Võ Thị Thuý Quỳnh (lược dịch)
Đơn vị Gen – Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai
Điều trị phối hợp S-1 và docetaxel có lợi ích sống thêm 3 năm không tái phát và thời gian sống thêm toàn bộ 3 năm cao hơn đáng kể so với chỉ điều trị S-1 đơn thuần.
1. Giới thiệu về S-1
S-1 là một fluoropyrimidine ức chế dihydropyrimidine dehydrogenase đường uống mới. Thuốc, là một điều chế sinh hóa của 5-fluorouracil, bao gồm tegafur và hai loại chất ức chế enzym. Nó được sử dụng rộng rãi để điều trị các khối u rắn khác nhau ở Châu Á để điều trị một số khối u rắn và là lựa chọn điều trị bổ trợ tiêu chuẩn cho ung thư dạ dày giai đoạn II / III sau khi phẫu thuật cắt bỏ.
Hình 1. Vai trò của hoá trị liệu S-1
2. Thử nghiệm lâm sàng GC-7 đánh giá hiệu quả điều trị S-1 phối hợp với docetaxel
Thử nghiệm lâm sàng GC-7 pha III do GS. Kazuhiro Yoshida, Giám đốc Đại học Gifu, Trưởng khoa Ung thư Ngoại khoa – Đại học Gifu, Nhật Bản là tác giả chính cho thấy kết quả về thời gian sống thêm không tái phát (relapse free-survival – RFS) 3 năm của nhánh S-1/docetaxel vượt trội hơn đáng kể so với nhánh S-1 (65,9% so với 49,6%; tỷ lệ nguy hiểm [Hazard ratio_HR] là 0,632; P = 0,0007 ).
Khi theo dõi trung bình 48,2 tháng, cho thấy có 400 trường hợp tái phát và 324 trường hợp tử vong. RFS trong 3 năm là 67,7% ở nhóm S-1/docetaxel, cao hơn đáng kể so với 57,4% được báo cáo ở nhóm S-1 (HR, 0,715; P = 0,0008). Tương tự, tỷ lệ sống thêm tổng thể trong 3 năm là 77,7% ở nhóm S-1 / docetaxel, so với 71,2% ở nhóm S-1 (HR, 0,742; P = 0,0076). Ở thời điểm 12 tháng, 62,7% bệnh nhân trong nhóm S-1 đã thất bại trong điều trị, so với 56,2% ở nhóm điều trị kết hợp.
Ngoài việc giảm tái phát tổng thể, điều trị bằng liệu pháp kết hợp cũng làm giảm tỷ lệ tái phát tại các vị trí cụ thể so với chỉ dùng S-1. Chúng bao gồm giảm tái phát bạch huyết (6,4% so với 15,0%), tái phát huyết học (9,7% so với 15,5%), tái phát tại chỗ (2,9% so với 4,4%) và tái phát phúc mạc (18,8% so với 21,4%).
GS. Yoshida nhận xét không có tính an toàn mới nào được quan sát thấy. Các tác dụng ngoại ý cấp 3/4 xảy ra với S-1/docetaxel nhiều hơn so với S-1 đơn thuần bao gồm giảm bạch cầu trung tính (39,2% so với 16,4%), giảm bạch cầu (22,4% so với 2,7%) và sốt giảm bạch cầu (5,7% so với. 0,4%).
Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng trong một phân tích phân nhóm, bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn IIIB không thu được lợi ích tương tự về RFS và tỷ lệ sống chung với điều trị kết hợp như bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn IIIA hoặc IIIC.
TS. Rutika Mehta thuộc Viện Nghiên cứu và Trung tâm Ung thư H. Lee Moffitt, Tampa, Florida, đã nêu bật sự khác biệt về lợi ích giữa các phân nhóm, cũng như phát hiện rằng bệnh nhân giai đoạn IIIB dường như có lợi ích ít hơn.
Tuy nhiên, GS. Yoshida lưu ý rằng ấn bản thứ bảy của phân loại TNM của Ủy ban Hỗn hợp Hoa Kỳ về Ung thư (AJCC), phân biệt bệnh nhân dựa trên các phân nhóm tiên lượng, là không chính xác đối với bệnh giai đoạn III và điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Mehta đã chỉ ra một phân tích trước đó, trong đó hơn 33% cá nhân mắc bệnh giai đoạn IIIB, được xác định theo phiên bản thứ bảy của hệ thống phân loại AJCC, đã được phân loại lại là mắc bệnh giai đoạn IIIC, được xác định bằng cách sử dụng phiên bản thứ tám gần đây hơn. Bà nói: “Cũng có ít bệnh nhân T2, N0 và N1, nên việc khấu trừ có ý nghĩa trong các phân nhóm này là không thể”. Tuy nhiên bất chấp những hạn chế này, "những kết quả này có ý nghĩa và tác động mạnh mẽ, và sự kết hợp của docetaxel và S-1 cho thấy RFS và khả năng sống sót toàn bộ tốt hơn so với chỉ S-1.
GS. Yoshida kết luận: “Những kết quả này ủng hộ cho một khuyến nghị mới về việc sử dụng docetaxel cộng với S-1 cho bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn III sau khi cắt bỏ hạch D2”.
Nguồn:
- Better survival with S-1/Docetaxel in stage III gastric cancer” của tác giả Roxanne Nelson đăng trên Medscape ngày 18 tháng 01 năm 2021.
- Kubota, T. The role of S-1 in the treatment of gastric cancer. Br J Cancer 98, 1301–1304 (2008).