Nồng độ carcinoembryonic antigen CEA huyết thanh có giá trị trong theo rõi kết quả điều trị bằng TKI ở các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ nhưng không có giá trị trong đánh
Nồng độ carcinoembryonic antigen CEA huyết thanh có giá trị trong theo rõi kết quả điều trị bằng TKI ở các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ nhưng không có giá trị trong đánh giá tình trạng kháng thuốc ở các bệnh nhân này.
Mục đích của nghiên cứu là đánh giá mối liên quan giữa nồng độ CEA và kết quả điều trị ở các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được điều trị bằng TKI và với tình trạng kháng thuốc ở các bệnh nhân này. Có tổng số 100 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB và IV được điều trị bằng erlotinib hoặc gefitinib. Nghiên cứu tìm hiểu liên quan giữa nồng độ CEA và hiệu quả lâm sàng khi điều trị với erlotinib hoặc gefitinib. Đánh giá tình trạng kháng thuốc bằng kết quả xét nghiệm đột biến gen sau khi sinh thiết lại. Kết quả cho thấy trong 100 bệnh nhân thì tỉ lệ bệnh nhân có CEA cao, bình thường và thấp là 49, 30 và 21 bệnh nhân. Trung vị của thời gian sống không bệnh 6.4 và 4.5 tháng ở nhóm có CEA cao và thấp (p=0.027). Trung vị thời gian sống không bệnh ở nhóm CEA bình thường là 3 tháng. Không có sự khác biệt về thời gian sống toàn bộ và tỉ lệ đáp ứng giữa nhóm có nồng độ CEA cao và thấp. Ngoài ra không có sự khác biệt về tỉ lệ xuất hiện kháng TKI giữa 3 nhóm bệnh nhân có CEA cao, bình thường và thấp. Do vậy, có thể thấy rằng Nồng độ carcinoembryonic antigen CEA huyết thanh có giá trị trong theo rõi kết quả điều trị bằng TKI ở các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ nhưng không có giá trị trong đánh giá tình trạng kháng thuốc ở các bệnh nhân này.
BS Trần Hải Bình Sưu tập & dịch