Kết quả 'Xuất sắc' đối với Osimertinib ở bệnh nhân NSCLC Giai đoạn III EGFR + không thể cắt bỏ

Ngày đăng: 12/09/2024 Lượt xem 204
Kết quả 'Xuất sắc' đối với Osimertinib ở  bệnh nhân NSCLC Giai đoạn III EGFR + không thể cắt bỏ
Ths. Vũ Thị Thu Hiền, GS.TS. Mai Trọng Khoa, PGS.TS. Phạm Cẩm Phương
Đơn vị Gen – Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai (Dịch)

CHICAGO - Osimertinib (Tagrisso) có thể sớm nhận được sự chấp thuận ở tất cả các giai đoạn của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) được điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC).
Thuốc ức chế tyrosine kinase EGFR thế hệ thứ ba (TKI) đã có chỉ định điều trị bệnh di căn và sử dụng bổ trợ trong NSCLC có đột biến gen EGFR giai đoạn sớm.
Kết quả từ thử nghiệm LAURA giai đoạn 3, được trình bày tại cuộc họp thường niên năm 2024 của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO) do AstraZeneca tài trợ, có thể sẽ dẫn đến sự chấp thuận cho chỉ định còn lại: Bệnh giai đoạn III không thể cắt bỏ.
Trong số những bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên dùng osimertinib hoặc giả dược sau khi hóa trị dứt điểm, osimertinib đã kéo dài thời gian sống sót trung bình không bệnh tiến triển thêm 33,5 tháng so với giả dược - tương ứng là 39,1 so với 5,6 tháng (tỷ lệ rủi ro, 0,16; P = 0,001).
Kết quả này được chào đón nhiệt liệt tại cuộc họp và được trình bày bởi điều tra viên chính và bác sĩ ung thư y tế Suresh S. Ramalingam , MD, một chuyên gia về ung thư phổi tại Đại học Emory, Atlanta.
Spigel, bác sĩ chuyên khoa ung thư y tế tại Viện nghiên cứu Sarah Cannon, Nashville, Tennessee cho biết: “Việc giảm 84% nguy cơ tiến triển ung thư hoặc tử vong là rất có ý nghĩa”. "Đây sẽ là thông lệ thay đổi ngay khi nhãn được mở rộng."
Trong thử nghiệm, các nhà điều tra đã chọn ngẫu nhiên 216 bệnh nhân NSCLC có đột biến gen EGFR giai đoạn III không thể cắt bỏ và không tiến triển sau khi hóa trị dứt điểm bằng platium để nhận 80 mg osimertinib (n = 143) hoặc giả dược (n = 73). Các đặc điểm cơ bản nhìn chung được cân bằng giữa các nhánh nghiên cứu, với sự phân chia gần như đồng đều giữa các phân nhóm giai đoạn III.
Bệnh nhân được phân loại bằng sinh thiết hoặc CT lúc đầu kết hợp với chụp MRI để xác nhận không có tổn thương não. Hình ảnh tiếp theo được lặp lại đều đặn.
Tỷ lệ sống thêm không tiến triển trong 12 tháng, được đánh giá bằng đánh giá trung tâm độc lập mù, là 74% với osimertinib so với 22% với giả dược. Sau 24 tháng, tỷ lệ này lần lượt là 65% và 13%.
Lợi ích sống thêm không bệnh tiến triển được áp dụng ở nhiều phân nhóm nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê ở những người châu Á, chiếm hơn 80% trong cả hai nhóm nghiên cứu.
Ramalingam báo cáo, mặc dù dữ liệu chưa đầy đủ, nhưng osimertinib cũng đang cho thấy xu hướng cải thiện tỷ lệ sống sót chung, mặc dù 81% bệnh nhân dùng giả dược chuyển sang dùng osimertinib sau khi bệnh tiến triển. Kết quả sống sót tổng thể đầy đủ được mong đợi trong vòng 2 năm.
Ramalingam cho biết: Dựa trên những kết quả này, “osimertinib sẽ trở thành tiêu chuẩn chăm sóc mới” sau khi hóa trị dứt điểm ở nhóm bệnh nhân này.
Ông nói thêm rằng xét nghiệm đột biến gen EGFR “hiện rất quan trọng đối với bệnh nhân giai đoạn III để đảm bảo điều trị tối ưu”. Gần một phần ba số bệnh nhân NSCLC mắc bệnh ở giai đoạn III và phần lớn không thể cắt bỏ được. Trong số đó, khoảng một phần ba là có đột biến gen EGFR.
Ramalingam nhấn mạnh rằng giả dược là một chất so sánh công bằng trong thử nghiệm. Trong khi tiêu chuẩn chăm sóc hiện tại đối với bệnh giai đoạn III không thể cắt bỏ là dùng Durvalumab trong 1 năm sau khi hóa trị. Durvalumab đã được chứng minh là không hiệu quả đối với bệnh có đột biến gen EGFR và thường không được sử dụng trong trường hợp này.
Ông nói với Medscape Medical News rằng nếu nhánh đối chứng sử dụng Durvalumab, bệnh nhân sẽ phải đợi cho đến khi an toàn mới được dùng EGFR TKI sau khi bệnh tiến triển. Điều này dường như không mang lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân.
Tổng cộng có 68% bệnh nhân dùng giả dược tiến triển các tổn thương mới trong quá trình nghiên cứu, bao gồm di căn não là 29%. Các tổn thương mới phát triển ở 22% số người dùng osimertinib, với các tổn thương não mới là 8%.
Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi do phóng xạ, tác dụng phụ thường gặp nhất, là 48% với osimertinib và 38% với giả dược. Phát ban trên da, tiêu chảy và các tác dụng phụ TKI đã biết khác cũng phổ biến hơn với osimertinib.
Các tác dụng phụ cấp 3 hoặc nặng hơn liên quan đến điều trị xảy ra ở 13% bệnh nhân sử dụng osimertinib so với 3% bệnh nhân dùng giả dược. Nhìn chung, 8% bệnh nhân sử dụng osimertinib phát triển bệnh phổi kẽ; hầu hết các trường hợp đều ở mức độ thấp, nhưng có một người đã tử vong.
Khoảng một nửa số bệnh nhân tạm ngừng dùng thuốc osimertinib do tác dụng phụ, một số ít ngừng dùng hẳn.
Một người thảo luận nghiên cứu khác, bác sĩ ung thư y tế Lecia Sequist , MD, gọi kết quả là "thay đổi thực hành" và cho biết những phát hiện này hỗ trợ việc củng cố ngay lập tức bằng osimertinib thay vì chờ bệnh nhân tiến triển.
Sequist, người đã báo cáo với AstraZeneca, lưu ý rằng bệnh nhân được điều trị bằng osimertinib cho đến khi bệnh tiến triển chứ không phải trong thời gian giới hạn như trong các thử nghiệm EGFR TKI trước đây, làm tăng khả năng điều trị suốt đời, vô thời hạn.
Điều trị cho đến khi bệnh tiến triển cho thấy thực tế rằng đối với hầu hết bệnh nhân NSCLC giai đoạn III không thể cắt bỏ là không thể chữa khỏi. Tuy nhiên, cô cho biết một số ít bệnh nhân có thể không cần điều trị vô thời hạn - một nhóm quan trọng cần xác định, do thuốc có giá hơn 18.000 USD một tháng .
Tài liệu tham khảo
M. Alexander Otto, PA, MMS, 2024, 'Outstanding' Results for Osimertinib in Unresectable Stage III EGFR+ NSCLC, Medscape Medical News
Link bài: https://www.medscape.com/viewarticle/outstanding-results-osimertinib-unresectable-stage-iii-egfr-2024a1000ag4?form=fpf





Tin liên quan