Vai trò phân loại phân tử CMS trong tiên lượng điều trị ung thư đại trực tràng
TS. Nguyễn Thuận Lợi (tổng hợp)
Đơn vị Gen – Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai
Cá thể hóa điều trị ung thư đại trực tràng di căn (mCRC) theo khuyến nghị của quốc gia (NCCN, hướng dẫn S3 của Đức) và quốc tế (ESMO/ESMO ASIA) hướng dẫn phân tích đột biến của RAS và yếu tố liên quan đến BRAF và MSI.
Phân nhóm CMS dựa trên phân tích biểu hiện gen đã thu hút sự chú ý kể từ khi được công bố bởi Guinney và cộng sự. Sử dụng dữ liệu biểu hiện gen từ các khác nghiên cứu với bốn loại ung thư đại trực tràng khác nhau đã được xác định.
CMS1 được xác định bởi sự điều hòa của các gen miễn dịch là liên quan chặt chẽ với sự mất ổn định hệ gen (MSI-H).
CMS2 phản ánh con đường sinh học chính của ung thư và được định nghĩa bởi trình tự adenoma-carcinoma. Nhiễm sắc thể di truyền không ổn định của các khối u có liên quan đến các đột biến ở APC, p53 và RAS. Nhìn chung, CMS2 đại diện cho sự biểu hiện quá mức con đường thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) và EGFR-phối tử amphiregulin và epiregulin với mức độ biểu hiện thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì người.
CMS3 được xác định bởi rối loạn điều hòa sự trao đổi chất liên quan đến hoạt động cao trong glutaminolysis và nguồn gốc lipido.
CMS4 được xác định bởi con đường yếu tố kích hoạt tăng trưởng mô được (TGF) -b và quá trình chuyển dạng trung mô – biểu mô (EMT) làm cho nó có khả năng kháng hóa chất cao hơn.
Dữ liệu của Liên minh kiểm soát Ung thư Quốc tế (UICC) trước đây cho thấy hầu hết từ giai đoạn II và III có hiệu quả tiên lượng tốt khi được phân theo CMS tính theo cả hai, chỉ tiêu OS và PFS. Tiên lượng liên quan của CMS trong UICC giai đoạn IV có vẫn chưa rõ ràng, cũng như dự đoán tác dụng có thể có đối với sử dụng kháng thể EGFR hoặc kháng thể (yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu-A: VEGF-A).
Trong nghiên cứu FIRE-3 với mục đích: đánh giá giá trị tiên lượng của phân loại CMS trong UTĐTT di căn; giá trị dự đoán của việc sử dụng phân loại CMS cho bevacizumab hoặc cetuximab trong điều trị ung thư đại trực tràng di căn; so sánh sự khác biệt của CMS với khối u có và không có đột biến RAS và xem xét sự khác biệt CMS với vị trí khối u bên trái phải? Kết quả cho thấy, giá trị tiên lượng của các phân nhóm CMS đã dược chứng minh. Đối với cả hai khối u không có đột biến và có đột biến gen RAS, CMS có thể dự đoán tương đối về tỷ lệ sống còn với CMS1 là có tỷ lệ sống sót kém nhất, CMS2 ở khối u không có đột biến gen RAS và CMS4 ở các khối u có đột biến gen RAS cho thấy thời gian sống thêm dài hơn. Điều này không chỉ phù hợp với sự liên quan tiên lượng của CMS được báo cáo trước đây mà còn với dữ liệu từ nghiên cứu PETACC8 cũng như nghiên cứu CALGB80405 đã được trình bày tại hội nghị thường niên ASCO năm 2017.
Tóm lại, phân loại CMS trong thử nghiệm FIRE-3 có thể được thấy là có giá trị tiên lượng đáng kể. Tuy nhiên, từ quan điểm lâm sàng, CMS dường như không có giá trị vượt trội liên quan đến việc lựa chọn bệnh nhân được điều trị tối ưu bằng các thuốc kháng EGFR hoặc kháng VEGF. Phân loại CMS cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về sinh học trong ung thư đại trực tràng, nhưng tại thời điểm hiện tại nó chưa có tác động đến việc ra quyết định lâm sàng.
Nguồn: tổng hợp
Tài liệu tham khảo
Schmiegel W, Buchberger B, Follmann M et al. S3-leitlinie – kolorektales karzinom. Z Gastroenterol 2017; 55: 1344–1498.