Do xạ trị là một cách
điều trị cục bộ nên tác dụng phụ cũng thường giới hạn ở những khu vực được xạ. Những
biến chứng sớm của tia xạ có thể xuất hiện trong vòng vài ngày hoặc vài tuần sau khi bắt đầu điều trị và có thể tiếp tục trong 5, 6 tuần sau khi kết thúc điều trị. Những tác dụng phụ khác có thể không xuất hiện cho đến vài tháng, hoặc thậm chí vài năm sau đó. Những tác dụng phụ thường gặp sẽ được bàn luận ở phía dưới.
Mệt mỏi
Mệt mỏi là một tác dụng phụ thường gặp của hóa trị nhưng nguyên nhân chính xác của nó thì vẫn chưa được biết. Đôi khi, các khối u làm cho hệ miễn dịch tạo ra những chất gây mệt mỏi. Mệt mỏi có thể do thiếu máu (giảm số lượng hồng cầu), suy dinh dưỡng, đau, những thuốc như corticoid, hóa trị, trầm cảm và stress gây ra.
Không có cách điều trị đơn độc cho triệu chứng này nhưng nếu như có thể tìm ra được nguyên nhân thì nên điều trị nó. Chẳng hạn như mệt mỏi một phần được gây ra bởi tình trạng thiếu máu, nhiều bệnh nhân sẽ cảm thấy khá hơn sau khi được truyền máu, hoặc được cho những loại thuốc kích thích cơ thể tạo ra nhiều hồng cầu hơn.
Những bài tập thể dục từ nhẹ đến vừa kèm với giai đoạn nghỉ ngơi thường xuyên có thể là một phần trong chương trình làm giảm mệt mỏi. Hãy trao đổi với bác sĩ về điều này và những các điều trị khác có thể hữu ích cho bạn.
Da
Những cách xạ trị hiện đại ngày nay có thể ít gây tổn thương da hơn những cách trước đây do hầu hết liều xạ trị được đưa vào dưới bề mặt da. Bạn vẫn có thể cảm thấy da bị đáp ứng sớm với điều trị. Trong vòng 2 tuần đầu điều trị, bạn có thể cảm thấy da đỏ nhẹ. Da có thể trở nên mềm và nhạy cảm. Triệu chứng khô da và lột da có thể xuất hiện trong 3, 4 tuần sau. Sau đó, da của bệnh nhân sau điều trị có thể trở nên tối hơn. Điều này là do tác dụng của phóng xạ trên các tế bào sản xuất sắc tố của da.
Da có thể trở nên khô và ngứa. Làm ẩm da bằng dầu lô hội, lanolin hoặc vitamin E có thể hữu ích. Trước khi dùng bất kỳ sản phẩm nào trên da trong khi điều trị, hãy hỏi ý kiến bác sĩ xạ trị xem chúng có an toàn không. Một số mỹ phẩm có thể dùng tốt sau khi kết thúc điều trị nhưng lại làm tình trạng xấu đi nếu dùng trong khi điều trị. Tránh dùng nước hoa, chất khử mùi và thuốc bôi trên da có chứa cồn hoặc nước hoa. Ngoài ra cũng nên tránh bột phấn trừ phi đã được bác sĩ đồng ý. Tránh xa ánh sáng mặt trời càng nhiều càng tốt. Nếu bạn cần phải đi ra ngoài, hãy đội mũ và mặc quần áo có thể bảo vệ da được. Khoảng một tháng sau điều trị, một số bệnh nhân xạ trị có thể cảm thấy bị lột da và chảy nước ở khu vực điều trị. Hãy thông báo với bác sĩ nếu gặp những hiện tượng này.
Những hậu quả của xạ trị xuất hiện trễ hơn có thể là làm mỏng da. Da có thể cảm thấy cứng, đặc biệt là nếu như bệnh nhân đã được phẫu thuật trên cùng một vị trí. Một số bệnh nhân gặp rắc rối với quá trình lành vết thương ở khu vực được điều trị.
Miệng và họng
Viêm miệng là một tác dụng phụ ngắn hạn có thể xảy ra khi xạ trị ở khu vực đầu và cổ. Thường tình trạng sẽ được cải thiện trong vòng vài tuần sau khi kết thúc điều trị. Khô miệng và mất vị giác có thể là do phóng xạ làm tổn thương các tuyến nước bọt và các nhú vị giác bên trong miệng. Những tác dụng phụ này có thể hết sau khi kết thúc điều trị, nhưng trong một số trường hợp, chúng có thể tồn tại vĩnh viễn.
Giữ miệng sạch là yếu tố quan trọng để làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nếu miệng bắt đầu đau, bạn sẽ được cho thuốc làm tê miệng hoặc làm giảm đau. Thuốc được uống trước bữa ăn để giúp ăn dễ hơn. Hãy đảm bảo rằng bạn đã báo với bác sĩ về bất kỳ cơn đau nào và các loại thuốc có tác dụng hay không.
Dinh dưỡng tốt rất quan trọng đối với các bệnh nhân ung thư. Nếu bị miệng bị đau hoặc tấy làm khó ăn hoặc khó nuốt, bạn có thể được cho ăn qua ống đặt trực tiếp vào dạ dày trong một khoảng thời gian để giúp bạn có đủ chất dinh dưỡng. Các bác sĩ sẽ giúp bạn lập kế hoạch kiểm soát những triệu chứng này.
Xạ trị vùng đầu và cổ có thể ảnh hưởng đến răng. Chăm sóc răng miệng để phòng ngừa triệu chứng sẽ trở thành một phần quan trọng trong kế hoạch điều trị của bạn. Trước khi bắt đầu xạ trị, hãy trao đổi với nha sĩ để được kiểm tra toàn diện. Ngoài ra cũng nên yêu cầu nha sĩ nói chuyện với bác sĩ xạ trị cho bạn trước khi bắt đầu điều trị. Bất kỳ thủ thuật nha khoa nào cũng đều cần phải được thực hiện trước khi bắt đầu xạ trị và cần phải điều trị fluoride mỗi ngày để bảo vệ răng.
Não
Xạ trị trên một phạm vi lớn trong não đôi khi có thể gây thay đổi chức năng não có thể dẫn đến mất trí nhớ, giảm ham muốn tình dục hoặc chịu đựng kém với khí hậu lạnh. Bạn cũng có thể gặp những triệu chứng như buồn nôn, loạng choạng, thay đổi thị giác. Thông thường những triệu chứng này chỉ là thứ yếu nếu so với những triệu chứng gây ra bởi u não nhưng chúng có thể gây phiền phức cho bạn.
Đôi khi, một vùng rộng lớn gồm các tế bào chết, còn được gọi là hoại tử do phóng xạ, được hình thành tại vị trí xạ trị bên trong não vào khoảng từ vài tháng đến vài năm sau điều trị. Những bệnh nhân này thường hoạt động tốt hơn những bệnh nhân bị u não tái phát. Tuy nhiên, có một số ít bệnh nhân bị hoại tử hoạt động rất kém hoặc thậm chí tử vong.
Phổi
Khi xạ trị ở ngực, phổi có thể bị ảnh hưởng. Một thay đổi sớm có thể gặp là giảm lượng surfactant, là một chất của phổi giúp đường dẫn khí được mở thông thoáng. Giảm surfactant làm cho phổi không thể nở ra hết mức được gây thở ngắn hoặc ho. Những triệu chứng này đôi khi có thể điều trị được bằng corticoid. Tùy thuộc vào vị trí xạ trị, một số bệnh nhân còn có thể thấy khó nuốt.
Một tác dụng phụ khác có thể xảy ra khi xạ trị ở phổi là xơ hóa phổi (cứng hoặc hóa sẹo) làm giảm khả năng giãn nở và thu nhận khí của phổi. Nếu một vùng lớn của phổi tiếp xúc với phóng xạ, những thay đổi này có thể gây thở ngắn và kém thích nghi với những hoạt động thể lực. Hiện tượng này có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm sau khi kết thúc điều trị.
Ống tiêu hóa
Xạ trị ở ngực và bụng có thể gây phù nề và viêm thực quản, dạ dày hoặc ruột gây ra các triệu chứng như đau, buồn nôn, nôn, hoặc tiêu chảy. Thuốc kháng acid, đôi khi có thể kết hợp với thuốc tê chẳng hạn như lidocaine. có thể làm thuyên giảm cơn đau ở những thực quản bị viêm. Nôn và buồn nôn cũng có thể điều trị được bằng thuốc. Nếu nặng, bệnh nhân có thể cần phải truyền dịch qua tĩnh mạch để tránh hoặc điều trị mất nước. Tiêu chảy có thể được điều trị bằng thuốc và tránh những thức ăn có gia vị, chiên, hoặc có độ xơ cao.
Cơ quan sinh dục
Khả năng sinh sản
Xạ trị ở tinh hoàn có thể gây mất vĩnh viễn khả năng sản xuất tinh trùng. Trừ phi ung thư xuất hiện ở tinh hoàn, nếu không chúng thường sẽ được bảo vệ khỏi phóng xạ bằng cách dùng một tấm giáp che chắn.
Bảo vệ buồng trứng ở nữ giới khi xạ trị ở bụng thì khó hơn. Nếu cả 2 buồng trứng đều bị tiếp xúc với phóng xạ, bệnh nhân sẽ mất vĩnh viễn khả năng sinh sản cùng với hiện tượng mãn kinh sớm. Tránh 1 buồng trứng có thể ngăn ngừa được tác dụng phụ này.
Giảm chức năng tình dục ở nữ giới khi xạ trị
Xạ trị ở vùng chậu có thể làm cho âm đạo bị nhạy cảm và viêm trong suốt vài tuần sau điều trị. Khi lành có thể để lại sẹo làm cản trở khả năng giãn của âm đạo. Niêm mạc âm đạo cũng sẽ mỏng hơn có thể gây chảy máu nhẹ sau khi quan hệ. Một số bệnh nhân còn bị loét hoặc một điểm đau nhỏ ở âm đạo. Cần phải mất vài tháng sau điều trị để khu vực này có thể lành lại được.
Bình thường sẹo có thể xuất hiện sau xạ trị vùng chậu làm âm đạo ngắn lại hoặc hẹp lại gây khó chịu khi giao hợp. Thường có thể ngăn ngừa được hiện tượng này bằng cách kéo dãn thành âm đạo vài lần mỗi tuần. Một trong những cách để thực hiện điều đó là quan hệ tình dục ít nhất 3 đến 4 lần mỗi tuần. Một lựa chọn khác là có thể dùng dụng cụ làm dãn âm đạo. Dụng cụ này là một que hay ống bằng nhựa hoặc cao su được dùng để kéo dãn âm đạo ra. Chúng sẽ cho cảm giác như đặt một tampon lớn vào trong vòng vài phút. Ngay cả khi nếu bệnh nhân không thích thú trong chuyện tình dục, việc giữ cho âm đạo ở kích thước bình thường giúp cho bác sĩ có thể thăm khám được dễ dàng. Đây là một phần quan trọng trong quá trình chăm sóc sau phẫu thuật.
Nếu không bị chảy máu nặng từ khối u ở bàng quang, trực tràng, tử cung, cổ tử cung, hoặc âm đạo, thì bệnh nhân có thể quan hệ tình dục được bình thường trong khi được xạ trị vùng chậu. Cơ quan sinh dục ngoài và âm đạo vẫn chỉ có độ nhạy cảm như bình thường. Nhưng nếu âm đạo bị tiếp xúc với phóng xạ sẽ gây khó chịu khi quan hệ do những điểm đau nhỏ hoặc mô viêm. Các bệnh nhân nữ được xạ trị nên tuân theo những hướng dẫn của bác sĩ về quan hệ tình dục trong khi điều trị. Hãy trao đổi với bác sĩ hoặc y tá về bất cứ vấn đề về tình dục nào mà bạn gặp phải.
Giảm chức năng tình dục ở nam giới khi xạ trị
Xạ trị ở khung chậu có thể làm tổn thương các động mạch và dây thần kinh cung cấp cho dương vật và gây ra những vấn đề về cương. Liều xạ trị càng cao và vùng xạ trị ở khung chậu càng rộng thì bệnh nhân càng có nhiều khả năng gặp rắc rối về cương dương hơn.
Khoảng 1/3 nam giới được xạ trị nhận thấy những thay đổi về khả năng cương của họ. Thay đổi thường xảy ra chậm sau 1 năm đầu hoặc sau quá trình điều trị. Một số nam bệnh nhân tiếp tục cương được tối đa nhưng sau đó lại mất đi trước khi lên đến đỉnh. Một số không còn có thể cương lên được hoàn toàn. Nam giới lớn tuổi, chưa từng cương hoàn toàn trước khi được điều trị, bị tăng huyết áp, hoặc nghiện thuốc nặng là những người có nguy cơ cao bị rối loạn cương dương sau xạ trị.
Testosterone là hormon nam đóng vai trò quan trọng trong chức năng cương. Một số nam giới bị giảm testosterone sau xạ trị vùng chậu. Tinh hoàn, là nơi sản xuất testosterone, có thể bị ảnh hưởng với ngay cả ở những liều xạ trị nhẹ rải rác hoặc do bị stress toàn thân do quá trình điều trị. Nồng độ testosterone thường sẽ phục hồi trong vòng 6 tháng xạ trị. Nhưng nếu như bệnh nhân cảm thấy gặp rắc rối trong cương dương hoặc giảm ham muốn tình dục sau điều trị, các bác sĩ có thể quyết định cho làm xét nghiệm máu để kiểm tra xem nồng độ testosterone có thấp hay không. Một số bệnh nhân sẽ được cung cấp testosterone để đưa nồng độ chất này trong cơ thể trở về bình thường. Đối với những bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến, liệu pháp thay thế testosterol có thể làm tăng tốc độ phát triển của các tế bào ung thư.
Ung thư thứ phát
Mối liên hệ giữa phóng xạ và ung thư đã được xác nhận cách đây nhiều năm qua các nghiên cứu từ những người sống sót sau vụ nổ bomb nguyên tử tại Nhật Bản, sự phơi nhiễm của các công nhân ở một số ngành nghề, và những bệnh nhân được xạ trị do ung thư và một số bệnh khác.
Một số trường hợp bị bệnh bạch cầu có liên quan đến tiếp xúc phóng xạ trước đó. Hầu hết các trường hợp xuất hiện bệnh trong vòng vài năm tiếp xúc, nguy cơ đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian từ 5 đến 9 năm sau tiếp xúc rồi sau đó giảm xuống dần. Những loại ung thư khác sau tiếp xúc với phóng xạ cần phải có nhiều thời gian hơn mới xuất hiện. Chúng có thể là những khối ung thư đặc, như ung thư vú, hoặc phổi. Hầu hết không xuất hiện trong vòng ít nhất 10 năm sau khi tiếp xúc phóng xạ, thậm chí một số trường hợp còn được chẩn đoán sau 15 năm.
Các kỹ thuật xạ trị được cải thiện đều đặn trong vòng vài thập kỷ qua. Giờ đây xạ trị đã có thể tập trung đến các tế bào ung thư một cách chính xác hơn và y học cũng đã hiểu biết nhiều hơn về cách định liều phóng xạ. Những tiến bộ trên mang lại hy vọng sẽ giảm được tỷ lệ xuất hiện ung thư thứ phát do xạ trị. Nguy cơ ung thư thứ phát sau xạ trị thường thấp và phải được cân nhắc trước những hiệu quả thuyết phục thu được nhờ xạ trị.