GS.TS. Mai Trọng Khoa, PGS.TS. Phạm Cẩm Phương, BS. Hoàng Văn Duy
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai
Trong rất nhiều năm qua, bệnh ung thư phổi vẫn luôn là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất và có tỷ lệ tử vong cao trên thế giới. Tại Việt Nam, hầu hết người bệnh khi mới phát hiện bệnh thì bệnh đã ở giai đoạn muộn và đã có các tổn thương di căn xa. Hiện nay đã có nhiều tiến bộ mới về điều trị cũng như các tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh đã góp phần làm tăng hiệu quả điều trị, phát hiện sớm sự tiến triển của bệnh và giúp kéo dài thời gian sống, cải thiện chất lượng sống cho người bệnh. Dưới đây là một bệnh nhân mắc ung thư phổi dù khi phát hiện bệnh đã ở giai đoạn muộn nhưng đã được điều trị ổn định tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.
Họ tên bệnh nhân: P. H. C, nam, 65 tuổi
Địa chỉ: Hà Nội
Thời gian vào viện: tháng 7/2018
Lí do vào viện: ho, tức ngực
Tiền sử: khỏe mạnh
Bệnh sử: Cách vào viện 1 tuần, bệnh nhân xuất hiện ho, tức ngực tăng nhiều về đêm. Bệnh nhân tự điều trị thuốc tại nhà nhưng không đỡ. Bệnh nhân đã đi khám tại bệnh viện Bạch Mai được chụp cắt lớp vi tính phát hiện khối u phổi phải, bệnh nhân được nhập viện Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai để chẩn đoán xác định và điều trị.
Khám toàn thân lúc vào viện:
- Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt
- Thể trạng trung bình, chiều cao: 162cm, cân nặng: 63kg
- Mạch: 75 lần/phút, Huyết áp: 120/70 mmHg
- Hạch ngoại vi không sờ thấy
- Phổi trái thông khí tốt
- Phổi phải giảm thông khí, nhiều rale ở đáy phổi.
- Nhịp tim đều, T1, T2 rõ không có tiếng bệnh lý
- Bụng mềm, Gan lách không sờ thấy
Các xét nghiệm cận lâm sàng:
Xét nghiệm: công thức máu, chức năng gan thận, điện giải đồ trong giới hạn bình thường, HIV (-), HBsAg âm tính
Xét nghiệm chất chỉ điểm u: CEA: 468,2 ng/ml (tăng); Cyfra 21-1: 22,1 ng/ml (tăng)
Nội soi dạ dày, đại tràng chưa phát hiện bất thường
Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực:
|
|
Hình 1: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực khối u thùy dưới phổi phải kích thước 6,1 x 4,8 cm (mũi tên) |
Kết quả chụp cộng hưởng từ sọ não:
Hình 2: Hình ảnh chụp công hưởng từ sọ não không phát hiện tổn thương bất thường
Kết quả xạ hình xương:
Hình 3: Hình ảnh xạ hình xương: tổn thương xương đa ổ theo dõi thứ phát
- Bệnh nhân được nội soi phế quản sinh thiết tổn thương u làm xét nghiệm mô bệnh học.
- Kết quả mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến, PD - L1 dương tính 10%
- Xét nghiệm đột biến gen EGFR: Phát hiện đột biến E746_A750 trên exon 19, không phát hiện đột biến T790M
Chẩn đoán xác định:
Bệnh chính: Ung thư phổi phải di căn xương đa ổ
Giai đoạn: T3NxM1 (giai đoạn IV)
Mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến, PDL1 (+), đột biến E746_A750 trên exon 19
Bệnh kèm theo: chưa phát hiện bệnh lý kèm theo
Điều trị:
Bệnh nhân được chỉ định điều trị bằng thuốc điều trị đích Afatinib 40mg/ngày, uống hàng ngày, kết hợp điều trị triệu chứng: giảm đau, nâng cao thể trạng ….
Sau 1 năm điều trị:
Lâm sàng: bệnh nhân toàn trạng ổn định, hết đau xương, hết ho, hết đau ngực, xuất hiện tác dụng phụ trên da độ II vùng bàn tay 2 bên.
Xét nghiệm:
- Các chất chỉ điểm u: CEA: 4,1 ng/ml, Cyfra 21-1: 1,18 ng/ml (trong giới hạn bình thường)
- Kết quả chụp PET/CT sau 1 năm điều trị:
|
Hình 4: Hình ảnh PET/CT: tổn thương xương đa ổ không tăng hấp thu 18FDG (mũi tên) | Hình 5: Hình ảnh PET/CT: đám mờ thùy dưới phổi phải kích thước 5,3 x 2,3 cm không tăng hấp thu 18FDG (mũi tên) |
|
Kết quả chụp cộng hưởng từ sọ não: Chưa phát hiện tổn thương bất thường.
Bệnh nhân có đáp ứng tốt với điều trị. Bệnh nhân được chỉ định tiếp tục duy trì Afatinib 40 mg/ ngày
Sau 18 tháng điều trị
Đến tháng 2 năm 2020, bệnh nhân thỉnh thoảng xuất hiện ho húng hắng, kèm đau nhẹ vùng cột sống thắt lưng khi vận động.
Khám toàn thân:
- Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt
- Thể trạng trung bình, chiều cao:160 cm, cân nặng: 57 kg
- Mạch: 70 lần/phút, Huyết áp: 130/80mmHg
- Hạch ngoại vi không sờ thấy
- Phổi thông khí tốt, rale ngáy rải rác 2 bên
- Không hạn chế vận động
- Không yếu liệt, không có dấu hiệu thần kinh khu trú
- Nhịp tim đều, T1, T2 rõ không có tiếng bệnh lý
- Bụng mềm, gan lách không sờ thấy
Xét nghiệm:
- Công thức máu, sinh hóa máu (chức năng gan thận) trong giới hạn bình thường.
- Chất chỉ điểm u: CEA: 10,5 ng/ml (tăng), Cyfra 21- 1: 4,52 ng/ml (tăng)
Kết quả chụp PET/CT:
|
Hình 6: Hình ảnh PET/CT: Nốt mờ thùy trên phổi phải tăng hấp thu FDG (mũi tên) |
|
Hình 7: Hình ảnh PET/CT: Hình ảnh hạch trung thất tăng hấp thu FDG (mũi tên) |
|
|
|
Hình 8: Hình ảnh PET/CT: tổn thương xương đa ổ tăng hấp thu FDG (mũi tên) |
Kết quả chụp cộng hưởng từ sọ não: Chưa phát hiện tổn thương bất thường.
Kết quả xét nghiệm đột biến gen EGFR mẫu huyết tương: không phát hiện đột biến EGFR.
Qua kết quả chụp PET/CT, chúng ta nhận thấy bệnh nhân đã có nhiều tổn thương mới xuất hiện cả ở phổi và ở xương cột sống thắt lưng, xương chậu đều có tính chất tăng hấp thu 18FDG. Kết quả đó hoàn toàn phù hợp với các dấu hiệu lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác, qua đó góp phần phản ánh tình trạng bệnh của bệnh nhân đã có dấu hiệu tiến triển. Bệnh nhân đã được chẩn đoán là ung thư phổi phải di căn xương EGFR (+) tiến triển sau điều trị bằng thuốc điều trị đích Afatinib. Ngay sau đó, bệnh nhân được đổi phác đồ điều trị bằng hóa chất phác đồ Pemetrexed kết hợp với Carboplatin trong 6 chu kỳ.
Bảng 1: So sánh kết quả điều trị của bệnh nhân trước và sau điều trị
| Trước hóa trị | Sau hóa trị 6 chu kỳ |
Lâm sàng | Bệnh nhân đau âm ỉ cột sống thắt lưng khi vận động | Bệnh nhân không còn cảm giác đau cột sống thắt lưng |
Xét nghiệm chất chỉ điểm u | - CEA: 10,5 ng/ml - Cyfra 21- 1: 4,52 ng/ml | - CEA : 4,7 ng/ml - Cyfra 21-1: 3,6 ng/ml |
Hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực | | |
Bệnh nhân đã có đáp ứng một phần với hóa trị. Bệnh nhân được tiếp tục điều trị duy tri bằng hóa chất theo phác đồ Pemetrexed đơn chất
Tóm lại: Đây là bệnh nhân ung thư phổi di căn xương đa ổ có đột biến gen EGFR đã được điều trị ổn định tại Bệnh viện Bạch Mai. Việc theo dõi thường xuyên, phát hiện kịp thời tình trạng tiến triển của bệnh trước khi có các triệu chứng rầm rộ trên lâm sàng dựa trên ứng dụng các tiến bộ của y học đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi tiên lượng sống, chất lượng sống và khả năng đáp ứng điều trị về sau của người bệnh. Chúng tôi hy vọng bệnh nhân P.H.C sẽ tiếp tục có thời gian ổn định bệnh lâu dài.
Nguồn: ungthubachmai.com.vn