Hội chứng sau nút mạch (post-embolization syndrome - PES) - yếu tố tiên lượng xấu cho ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng nút hóa chất động mạch.

Ngày đăng: 21/10/2020 Lượt xem 8379

Hội chứng sau nút mạch (post-embolization syndrome - PES) - yếu tố tiên lượng xấu cho ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng nút hóa chất động mạch.

                                                Bs. Lương Đình Bính (lược dịch)

                             Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai

Ung thư biểu mô tế bào gan (Hepatocellular carcinoma – HCC) là ung thư đứng hàng thứ 4 trên toàn thế giới với hơn 800000 ca mắc mới hàng năm và xếp hạng đầu tiên về nguyên nhân tử vong liên quan đến ung thư tại Việt Nam. HCC là ung thư phát triển nhanh và tiên lượng xấu với sống còn toàn bộ (OS) sau 5 năm dưới 12%. Ở giai đoạn sớm có thể điều trị triệt căn bằng ghép gan, phẫu thuật cắt gan hay can thiệp hủy u tại chỗ bằng nhiệt như sóng cao tần, vi sóng hay áp lạnh, tuy nhiên chỉ một số nhỏ các bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp triệt căn này. Có một số phương pháp điều trị cho các bệnh nhân không thể điều trị bằng các phương pháp điều trị triệt căn trong đó nút hóa chất động mạch (TACE – transaterial chemoembolization) là phương pháp thường được sử dụng nhất. TACE có thể được chỉ định như là một phương pháp điều trị đơn độc hoặc kết hợp với các phương pháp khác hoặc là phương pháp bắc cầu cho phẫu thuật (thường dùng trong thời gian chờ ghép gan).

Ở một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, TACE giúp cải thiện sống còn toàn bộ với tỉ lệ sống còn toàn bộ sau 3 năm từ 26-47% so với chỉ 3% ở nhóm không điều trị. Do đó TACE là phương pháp được khuyến cáo trong các guideline quốc tế cho các bệnh nhân HCC giai đoạn tiến triển không có khả năng phẫu thuật. Sự xâm lấn mạch máu hay có bệnh lý gan tiến triển là những yếu tố tiên lượng xấu của HCC và TACE mang lại rất ít lợi ích cho các nhóm bệnh nhân này. Mặc dù TACE được xem như là một phương pháp điều trị an toàn với ít biến chứng nghiêm trọng, hội chứng sau nút mạch (PES – post-embolization syndrome) là biến chứng thường gặp và được định nghĩa là hiện tượng sốt kèm đau hạ sườn phải có thể kèm theo buồn nôn và nôn xuất hiện trong vòng 14 ngày sau TACE.

Gần đây có một nghiên cứu thuần tập, hồi cứu được Mason và các cộng sự tiến hành trên 144 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp nút hóa chất động mạch – TACE ở Houston, Mỹ trong thời gian từ 2008 – 2014. Mục tiêu của nghiên cứu để đánh giá PES liệu có phải là một yếu tố tiên lượng sớm của ung thư biểu mô tế gan được điều trị bằng TACE hay không? Tiêu chí chính của nghiên cứu là thời gian sống còn toàn bộ. Phương pháp phân tích hồi quy đa biến Cox dùng để đánh giá mỗi liên quan giữa hội chứng sau nút mạch và thời gian sống còn toàn bộ.

Nghiên cứu cho thấy có 52 bệnh nhân có hội chứng sau nút mạch - PES chiếm tỉ lệ 36,1%, thời gian theo dõi trung bình của nghiên cứu là 11,4 tháng. Trung vị thời gian sống còn toàn bộ là 20 tháng, tỉ lệ sống còn toàn bộ ở thời điểm 1 năm, 3 năm và 5 năm lần lượt là 71%, 32% và 0%. Khi so sánh giữa nhóm có hội chứng sau nút mạch và nhóm không có hội chứng sau nút mạch cho thấy, tỉ lệ sống còn ở nhóm không có hội chứng sau nút mạch cao hơn đáng kể với trung vị OS là 25 tháng so với 16 tháng, tỉ lệ sống còn ở thời điểm 1 năm và 3 năm cũng cao hơn đáng kể ( lần lượt là 77% so với 56%, và 41% so với 18%, p=0,027). Tóm lại, hội chứng sau nút mạch làm tăng nguy cơ tử vong ở những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng TACE (với tỉ suất nguy cơ HR = 2,0, khoảng tin cậy 95% là từ 1,2-3,3 với p=0.011).

Bảng 1: Thông kê hồi quy đa biến Cox đánh giá mối liên quan giữa các biến được lựa chọn với nguy cơ tử vong sau TACE (N=144)

Yếu tố tiên lượng cho thời gian sống còn

Tỉ suất nguy cơ (Hazard ratio)

Khoảng tin cậy 95%

p

ECOG 2-4 (so với 0-1)

2.5

0.7-8.8

0.144

Không rõ ECOG

0.6

0.3-1.1

0.103

Đa u (so với một u)

0.9

0.5-1.5

0.575

Xâm lấn mạch lớn

4.5

2.4-8.6

<0.001

Child B (so với Child A)

1.9

1.0-3.4

0.040

Child C(so với Child A)

6.3

2.7-14.5

<0.001

Có hội chứng sau nút mạch (so với không có hội chứng)

2.0

1.2-3.3

0.011

TACE hơn một lấn (TACE một lần)

0.4

0.3-0.8

0.004

 

Qua nghiên cứu tác giá đánh giá, nhóm bệnh nhân có hội chứng sau nút mạch PES có nguy cơ tử vong cao gấp 2 lần so với nhóm không có hội chứng này. Ngoài ra trong nghiên cứu còn cho thấy các yếu tô như sự xâm lấn các mạch máu lớn và bệnh lý gan tiến triển (phân loại Child-Pugh B-C) cũng làm tăng nguy cơ tử vong và là các yếu tố tiên lượng của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng TACE. Tác giá kết luận: “Trong thiết lập cùng với các yếu tố tiên lượng khác, hội chứng sau nút mạch là một yếu tố tiên lượng xấu về thời gian sống còn ở những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển, không có khả năng phẫu thuật.

Nguồn:
Post-embolization syndrome as an early predictor of overall survival after transarterial chemoembolization for hepatocellular carcinoma

https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/26374137/

Tin liên quan