Ca lâm sàng ung thư phổi điều trị bằng GEFITINIB

Ngày đăng: 04/05/2018 Lượt xem 4163
Đại cương

Ung thư phổi là bệnh ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở cả hai giới. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc ung thư phổi đứng thứ nhất ở nam và thứ 2 ở nữ. Bệnh thường được phát hiện ở giai đoạn muộn do các triệu chứng không đặc hiệu, thường giống với triệu chứng của các bệnh lý đường hô hấp khác.

Ung thư phổi gồm hai nhóm chính: Ung thư phổi tế bào nhỏ và loại không tế bào nhỏ. Ung thư phổi biểu mô tuyến là loại thường gặp nhất trong nhóm không tế bào nhỏ.

Hóa chất hoặc điều trị đích với những bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến có đột biến gen EGFR dương tính là phương pháp điều trị chính khi bênh ở giai đoạn muộn. Hiện nay, các thuốc điều trị đích trong ung thư phổi bao gồm: Erlotinib ( Tarceva); Gefitinib ( Iressa); Afatinib; Osimertinib … Các nghiên cứu chỉ ra rằng điều trị đích mang lại hiệu quả vượt trội, cải thiện thời gian sống không bệnh và thời gian sống toàn bộ trên nhóm bệnh nhân này.

Sau đây là ca lâm sàng một bệnh nhân nữ, được chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn IV, có đột biến gen EGFR dương tính, được điều trị thành công bằng thuốc điều trị đích Gefitinib ( Iressa).

Bệnh nhân: Ngô Thị V., Nữ, 54 tuổi.

Ngày vào viện: Ngày 8/9/2017

Lý do vào viện: ho nhiều, tức ngực phải.

Bệnh sử: Trước và viện 1 tháng, bệnh nhân xuất hiện ho nhiều, ho khan, tức nhẹ ngực phải. Bệnh nhân đi khám, chụp cắt lớp vi tính( CT- Scanner) ngực phát hiện u phổi phải. Bệnh nhân nhập viện Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu -Bệnh viện Bạch Mai điều trị.

Tiền sử:

- Bản thân: khỏe mạnh

- Gia đình: không có ai mắc bệnh liên quan.

Khám lúc vào viện:

- Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt.

- Thể trạng gầy, chiều cao 153 cm.cân nặng 47 kg.

- Mạch: 72 chu kì/ phút, Huyết áp: 110/70 mmHg.

- Da niêm mạc hồng

- Hạch ngoại vi không sờ thấy.

- Nhịp tim đều, tần số 72 lần/phút, không thấy tiếng bệnh lý.

- Rì rào phế nang phổi trái rõ, Rì rào phế nang phổi phải giảm nhẹ.

- Bụng mềm, gan lách không sờ thấy

- Không liệt vận động,

Xét nghiệm:

- Xét nghiệm công thức máu: các chỉ số trong giới hạn bình thường

- Chức năng gan, thận trong giới hạn bình thường.

- Chất chỉ điểm ung thư: Tăng: CEA: 54,5 ng/ml, cyfra 21-1: 15,5 ng/ml

- Xét nghiệm vi sinh: Viêm gan B, HIV: âm tính

Kết quả chụp CT- Scanner ngực trước khi vào viện (11/8/2017)cho thấy:

U rốn phổi phải kích thước 5,4 x 4,6 cm, bờ tua gai, ngấm thuốc mạnh sau tiêm. Xâm lấn màng phổi. Nhiều nốt tổn thương phổi phải. Nhiều hạch trung thất kích thước lớn nhất: 2 cm.





Chụp cộng hưởng từ sọ não đánh giá: Không có tổn thương thứ phát tại não.

Xạ hình xương: không phát hiện tổn thương xương

Bệnh nhân được tiến hành soi phế quản, sinh thiết U phổi phải. Kết quả giải phẫu bệnh là ung thư phổi biểu mô tuyến.

Xét nghiệm đột biến gen EGFR: có đột biến tại exon 19.

Trong quá trình tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán và đánh giá giai đoạn bệnh, bệnh nhân xuất hiện khó thở tăng lên, hạn chế vận động, đau ngực trái nhiều. Khám lâm sàng cho thấy rì rào phế nang đáy phổi phải giảm. Tiến hành chụp lại CT- scanner ngực (21/9/2017) đánh giá. Kết quả cho thấy tràn dịch màng phổi phải số lượng nhiều.


Hình 3: Hình ảnh tràn dịch màng phổi phải số lượng nhiều ( 21/9/2017)

Tiến hành dẫn lưu dịch màng phổi phải ra dịch máu không đông, xét nghiệm tế bào học dịch kết quả: ung thư biểu mô tuyến di căn màng phổi.

TÓM TẮT:

Bệnh nhân nữ, 54 tuổi, vào viện vì ho nhiều

Chẩn đoán: Ung thư biểu mô tuyến của phổi phải di căn phổi, màng phổi, hạch trung thất. Giai đoạn IV: T4N3M1, đột biến gen EGFR dương tính    

HƯỚNG ĐIỀU TRỊ:

Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn cuối, có đột biến gen EGFR tại exon 19, không còn chỉ định phẫu thuật, xạ trị. Hơn nữa, thể trạng gầy yếu vì vậy chúng tôi quyết định tiến hành điều trị cho bệnh nhân bằng thuốc điều trị đích Iressa 250 mg x 1 viên, uống hằng ngày.

ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG BỆNH TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ

LÂM SÀNG:


- Sau 2 tuần điều trị, bệnh nhân đỡ ho, không còn đau tức ngực, không khó thở, đi lại sinh hoạt bình thường. Sau 1 tháng, bệnh nhân hết ho, tăng 2 kg.

- Xuất hiện nổi mụn số lượng ít vùng mặt

CẬN LÂM SÀNG ( sau 2 tháng điều trị):

- Công thức máu: Không gặp biến chứng hạ bạch cầu trong quá trình điều trị

- Chức năng gan thận trong giới hạn bình thường.

- Chỉ điểm u: CEA: 4,1 ng/ml, cyfra 21-1: 5,4 ng/ml ( trong giới hạn bình thường)

- CT- Scanner ngực: Hình ảnh CT- Scanner ngực sau 2 tháng điều trị cho thấy: khối u rốn phổi phải giảm kích thước 1,2 x 1,3 cm, ngấm thuốc ít sau tiêm, hết dịch màng phổi phải, không thấy hạch trung thất.



CT- Scanner ngực sau 4 tháng điều trị (10/1/2018): khối u rốn phổi kích thước 1,2 cm, không ngấm thuốc sau tiêm, không có dịch màng phổi, không có hạch trung thất.

Bệnh nhân đáp ứng tốt với thuốc điều trị đích. Về lâm sàng: bệnh nhân hết ho, sinh hoạt bình thường. Xét nghiệm chất chỉ điểm u cho thấy trước điều trị: CEA; Cyfra 21-1 tăng cao, sau điều trị 2 tháng giảm về mức bình thường. Trên phim chụp CT- Scanner lồng ngực khối u thu nhỏ kích thước từ 5,4 cm xuống còn 1,2 cm, hết hạch trung thất, không còn tràn dịch màng phổi. Vì vậy chúng tôi quyết định tiếp tục điều trị duy trì Iressa 250 mg uống hằng ngày cho bệnh nhân. Đến hiện tại sau 8 tháng điều trị bệnh nhân ổn định.

KẾT LUẬN

Bệnh nhân nữ, 54 tuổi. Được chẩn đoán: Ung thư biểu mô tuyến phổi phải di căn phổi, màng phổi, giai đoạn IV( T4N3M1), có đột biến gen EGFR dương tính. Sau điều trị 8 tháng bằng Gefitinib ( Iressa) 250mg liên tục, bệnh đáp ứng một phần.

Nguyễn Thị Hoa Mai

Tin liên quan