Điều trị thành công bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến ức tiến triển sau phẫu thuật tại trung tâm y học hạt nhân và ung bướu, bệnh viện bạch mai

Ngày đăng: 26/04/2016 Lượt xem 6341

GS.TS.Mai Trọng Khoa, TS.Phạm Cẩm Phương, BSNT. Lê Viết Nam

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu

 U tuyến ức thuộc khối u vùng trung thất, chiếm khoảng 30% u trung thất trước ở người lớn và 15% u trung thất trước ở trẻ em. U tuyến ức được chia làm 3 loại: U tuyến ức ác tính (Thymoma), ung thư tuyến ức (Thymic carcinoma), u mỡ tuyến ức (Thymilipoma). Thể mô bệnh học hay gặp nhất là ung thư tuyến ức. Tuy nhiên, tất cả các trường hợp u tuyến ức đều có khả năng xâm lấn nên nhiều tác giả coi đó là tổn thương ác tính. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là nhược cơ (chiếm 40% bệnh nhân có triệu chứng). Khi bệnh ở giai đoạn muộn các triệu chứng rầm rộ hơn với các biểu hiện: Đau tức ngực, khó thở, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên, hội chứng Horner (co đồng tử, sụp mi, giảm tiết mồ hôi bên bị tổn thương). Về điều trị, phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là biện pháp điều trị chủ đạo trong điều trị u tuyến ức ác tính, tuy nhiên việc cắt bỏ hoàn toàn có thể đòi hỏi phải cắt bỏ các cấu trúc lân cận như màng ngoài tim, thần kinh hoành, màng phổi, phổi, thậm chí cả các mạch máu lớn. U tuyến ức ác tính là u nhạy cảm với tia xạ nên xạ trị được áp dụng cho hầu hết các giai đoạn bệnh bao gồm cả khi tát phát. Hóa trị được sử dụng trong các trường hợp không mổ được, sau mổ cắt bỏ không hết, khi tái phát hoặc đã có di căn xa. Sau đây chúng tôi xin trình bày một trường hợp ung thư biểu mô tuyến ức được điều trị thành công tại trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai:

Bệnh cảnh: Bệnh nhân Nguyễn Thị S., nữ 53 tuổi, nhập viện trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu ngày 24/8/2015 sau mổ cắt u tuyến ức tại một bệnh viện ở Hà Nội.

Bệnh sử: Bệnh diễn biến 4 tháng trước khi vào viện, bệnh nhân xuất hiện đau tức ngực vùng sau xương ức, đau âm ỉ liên tục, thỉnh thoảng đau lan lên 2 vai. Kèm theo bệnh nhân ho khạc đờm trắng số lượng ít, không khó thở. Bệnh nhân đi khám và được chụp phim cắt lớp vi tính lồng ngực có hình ảnh u tuyến ức. Sau đó bệnh nhân đã được phẫu thuật lấy u tuyến ức ngày 6/7/2015 tại một bệnh viện ở Hà Nội. Kết quả mô bệnh học sau mổ là ung thư biểu mô tuyến ức biệt hóa cao. Sau mổ 1,5 tháng, bệnh nhân ổn định, được nhập viện Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai điều trị tiếp.

1

 Hình 1: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính trước phẫu thuật: U tuyến ức kích thước 3x4cm (vòng tròn đỏ)

 Tiền sử:

  • Bản thân: Khỏe mạnh
  • Gia đình: Không ai mắc bệnh liên quan

 Khám bệnh nhân lúc vào viện:

  • Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt
  • Thể trạng trung bình: chiều cao 161cm, nặng 63kg
  • Mạch: 80 lần/phút; Huyết áp: 120/70mmHg
  • Da niêm mạc hồng
  • Hạch ngoại vi: không sờ thấy
  • Tim đều 80 chu kỳ/phút, T1 T2 rõ, không có tiếng thổi
  • Phổi: Rì rào phế nang rõ, không có rales.
  • Cơ quan khác: Chưa phát hiện bất thường

Xét nghiệm cơ bản lúc vào viện:

  • Công thức máu: trong giới hạn bình thường

Hồng cầu: 4,23T/l; Huyết sắc tố: 127g/l; Bạch cầu: 5,8G/l; Tiểu cầu: 248G/l

  • Sinh hóa máu: Trong giới hạn bình thường

Glucose: 4,9mmol/l; Ure: 3,8mmol/l; Creatinin: 99µmol/l; GOT/GPT: 18/25 UI/l.

  • Xét nghiệm virus: HIV (-), HbsAg (-)
  • Xét nghiệm đông máu cơ bản, tổng phân tích nước tiểu: trong giới hạn bình thường.
  • Siêu âm ổ bụng: Bình thường
  • Kết quả mô bệnh học sau mổ: Ung thư biểu mô tuyến ức biệt hóa cao, xâm nhập mô liên kết, mỡ
  • Bệnh nhân được chụp PET/CT đánh giá giai đoạn: U tuyến ức sau phẫu thuật kích thước 9,6x4,5x4,5cm, tăng hấp thu FDG, max SUV = 10,9.

2

 Hình 2: Hình ảnh chụp PET/CT đánh giá sau phẫu thuật: U tuyến ức kích thước 9,6x4,5x4,5cm, tăng hấp thu FDG, max SUV = 10,9 (vòng tròn và mũi tên đỏ)

  • Chẩn đoán xác định: Ung thư biểu mô tuyến ức đã phẫu thuật lấy u, T3N0M0, giai đoạn II
  • Điều trị: Bệnh nhân được xạ trị gia tốc vào khối u tuyến ức dựa vào hình ảnh PET/CT mô phỏng, liều xạ trị 50Gy, phân liều 2Gy/ngày.
  • Đánh giá sau xạ trị:

- Lâm sàng: Bệnh nhân ổn định, không đau ngực, không khó thở.

- Siêu âm tim: Kích thước và chức năng tâm thu thất trái trong giới hạn bình thường

- Chụp cắt lớp vi tính ngực đánh giá sau xạ trị 2 tuần: Hình ảnh u tuyến ức phía trước động mạch chủ và động mạch phổi, kích thước 29x19mm.

3

Hình 3: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính sau xạ trị: U tuyến ức thu nhỏ kích thước hơn so với trước (29x19mm)

 Tóm lại:

Đây là một trường hợp bệnh nhân nữ 53 tuổi, được chẩn đoán: Ung thư tuyến ức đã phẫu thuật, T3N0M0, giai đoạn II. Sau phẫu thuật hơn một tháng chụp PET/CT đánh giá cho thấy u tuyến ức tiến triển tại chỗ tăng kích thước. Và bệnh nhân đã được điều trị xạ trị gia tốc liều 50Gy. Đánh giá sau xạ trị bệnh đáp ứng một phần.

4

Hình 4: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính, PET/CT lồng ngực trước và sau điều trị

Sau đó bệnh nhân tiếp tục được điều trị hóa trị phác đồ Doxorubin + Cisplatin:

             Doxorubicin 60mg/m2 da truyền tĩnh mạch ngày 1

             Cisplatin 40mg/m2 da truyền tĩnh mạch ngày 1

             Chu kỳ 21 ngày.

Sau hai chu kỳ hóa chất bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính lồng ngực cho thấy: Tổn thương đông đặc và kính mờ phế nang thùy trên và thùy dưới phổi phải, u tuyến ức tan biến.

5

 Hình 5: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực: Hình ảnh viêm phổi phải, không thấy khối choán chỗ tại trung thất.

Tuy nhiên bệnh nhân có triệu chứng viêm phổi trong quá trình điều trị: ho khạc đờm trắng, đau tức ngực phải, kèm theo có khó thở khi gắng sức, do đó tạm thời sau hai chu kỳ hóa trị, bệnh nhân được điều trị ổn định tình trạng viêm phổi, sau đó sẽ xem xét khả năng điều trị tiếp hóa trị hay chỉ theo dõi định kỳ.

Tin liên quan