Một vài nét về ung thư phổi không tế bào nhỏ:Ung thư phổi không tế bào nhỏ đang là bệnh ung thư đứng hàng số 1 về tỉ lệ mới mắc tại Việt Nam, bệnh nhân thường vào viện khi bệnh ở giai đoạn muộn (giai đoạn III, IV). Điều trị toàn thân là hướng điều trị chủ yếu, bao gồm: hóa chất, xạ trị triệu chứng, sinh học. Lựa chọn và lập kế hoạch điều trị phụ thuộc thể trạng, giai đoạn bệnh và mô học của từng bệnh nhân.
Điều trị hóa chất phù hợp với bệnh nhân có thể trạng cho phép, loại biểu mô tuyến nhưng không có đột biến gen EGFR, ung thư loại tế bào vảy… Phác đồ hóa chất có nhóm Platinum đem lại thời gian sống thêm không tiến triển và thời gian sống thêm toàn bộ cao hơn so với các phác đồ khác trong nhiều nghiên cứu đã được công bố.
Điều trị sinh học: thuốc điều trị đích ức chế enzyme tyrosin kinanse (TKIs) hoặc chất ức chế tăng sinh mạch (anti-VEGF, Bevacizumab). Nhóm thuốc TKIs là lựa chọn bước 1 với bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến có đột biến EGFR, đặc biệt là đột biến tại các exon 19 và 21 sẽ làm tăng sự nhạy cảm của thuốc, trong một số nghiên cứu cho thấy đột biến tại exon 20 có thể gây kháng thuốc, những trường hợp này hóa chất là sự lựa chọn thích hợp. Những bệnh nhân phát hiện có đột biến gen EML4-ALK, có thể dùng thuốc Crizotinib. Nhóm bệnh nhân không có đột biến gen, nếu không phải biểu mô vảy thì có thể điều trị hóa chất phối hợp với Bevacizumab.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh: sử dụng hóa chất hoặc TKIs điều trị bước một và chuyển sang bước 2 khi bệnh tiến triển (2 loại đảo chỗ cho nhau), kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân được điều trị TKIs bước 1 rồi hóa chất bước 2 có kết quả tốt hơn. Như vậy, TKIs là lựa chọn bước 1 điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến gen tại exon 19 và 21 và nên làm xét nghiệm đột biến gen EGFR cho tất cả bệnh nhân ung thư phổi biểu mô tuyến. Khi bệnh nhân được chẩn đoán kháng thuốc TKIs, bác sĩ lâm sàng nên sinh thiết lại tổn thương (tái phát hoặc di căn) và/hoặc tiến hành xét nghiệm EGFR huyết tương để phát hiện đột biến kháng thuốc T-790M, nếu bệnh nhân có đột biến này thì có chỉ định điều trị bằng TKIs thế hệ thứ 3 là Osimertinib...
Sau đây là ca lâm sàng một bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn III-B được điều trị thành công bằng thuốc TKIs (Gefitinib).
Bệnh cảnh:Bệnh nhân: Ng.T.B
Giới: nữ, Tuổi: 52 tuổi
Nghề nghiệp: Cán bộ hưu
Địa chỉ: Quảng Bình
Lý do vào viện: Ho khan kéo dài, đau tức ngực
Bệnh sử: Bệnh diễn biến trước ngày vào viện gần 2 tháng, bệnh nhân xuất hiện ho khan, đau tức ngực âm ỉ, không sốt, kèm theo có mệt mỏi gầy sút cân. Bệnh nhân đã được điều trị thuốc kháng sinh và thuốc giảm ho nhưng không đỡ. Bệnh nhân vào Trung tâm y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai để khám bệnh và điều trị.
Tiền sử:Tiền sử bản thân: Thoái hóa cột sống ngực D5-D6
Không có tiền sử dị ứng
Không hút thuốc lá.
Tiền sử gia đình: chưa phát hiện gì đặc biệt.
Khám lúc vào viện:
Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt
Thể trạng trung bình, chiều cao: 157 cm, cân nặng: 47 kg.
Không phù, không xuất huyết dưới da
Hạch ngoại vi không sờ thấy.
Hô hấp: Rì rào phế nang phổi phải giảm nhẹ, không có rales
Tim mạch: Nhịp tim đều 80 ck/ph. Tiếng T1,T2 rõ, không có tiếng thổi bệnh lý.
Các cơ quan, bộ phận khác không có gì đặc biệt.
Xét nghiệm cơ bản lúc vào viện:Công thức máu: trong giới hạn bình thường
Sinh hóa máu: chức năng gan, chức năng thận trong giới hạn bình thường.
Chất chỉ điểm ung thư (Tumor markers):
CEA: 7,6 ng/ml (tăng nhẹ so với bình thường), Cyfra 21-1: 6,4 ng/ml (tăng nhẹ so với bình thường)Vi sinh: HbsAg (-), HCV (-)
Đông máu cơ bản: bình thường
Chụp X-quang lồng ngực: Hình ảnh đám mờ thùy trên phổi phải, kích thước khoảng 3x4 cm, bờ tua gai.
Hình 1: Hình ảnh đám mờ thùy giữa phổi phải, kích thước khoảng 2x2,5 cm, bờ tua gai (vòng tròn vàng).
Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực:- Hình ảnh khối u thùy giữa phổi phải kích thước 2,5 x 3,0 cm,
- Hạch trung thất trước trên phải kích thước từ 1,3-2,1 cm, hạch rốn phổi phải kích thước 1,8 và 2,1 cm.
Chụp cộng hưởng từ sọ não: Hình ảnh thoái hóa chất trắng dưới vỏ thùy trán hai bên, không thấy tổn thương thứ phát.
Xạ hình xương: không thấy bất thường.
Bệnh nhân được Nội soi phế quản và sinh thiết tổn thương. Kết quả giải phẫu bệnh: Ung thư biểu mô tuyến.Phân tích đột biến gen EGFR:
Có đột biến mất đoạn tại exon 19 của gen EGFR, không có đột biến T-790M trên exon 20 gen EGFR.Tóm lại:Bệnh nhân nữ, 52 tuổi, vào viện vì ho khan kéo dài và đau tức ngực phải.
Chẩn đoán xác định:
Ung thư phổi phải di căn hạch trung thất, (T3N2M0), giai đoạn IIIB.
Mô bệnh học:
Ung thư biểu mô tuyến.Kết quả xét nghiệm đột biến EGFR:
phát hiện thấy đột biến mất đoạn trên exon 19 của gen EGFR.Xử trí: Bệnh nhân được hội chẩn hội đồng và được chỉ định điều trị đích bước 1 với Getifinib (Iressa) 250 mg x 1 viên, uống hàng ngày.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SAU 4 THÁNG.Lâm sàng
Bệnh nhân hết đau ngực, không khó thở, hết ho khan
Bệnh nhân hết mệt mỏi, ăn uống tốt
Rì rào phế nang hai phổi rõ, không rales
Xét nghiệm: CEA giảm xuống còn 1,25 ng/ml; Cyfra 21-1 giảm còn: 1,86 ng/ml/
Hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực sau điều trị 4 tháng (hình 3):
Đám tổn thương thùy giữa phổi phải, ít ngấm thuốc, kích thước 1,5 x 2 cm, bờ không đều, ranh giới không rõ.
Có vài hạch trung thất, hạch lớn nhất kích thước 1,0 x 1,6 cm.
Hình 3b: Hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực sau 4 tháng điều trị có vài hạch trung thất, hạch lớn nhất kích thước 1,0 x 1,6 cm. (mũi tên vàng)
So sánh trước và sau điều trị 4 tháng
Lâm sàng:
Trước điều trị: ho khan, đau tức ngực phải, mệt mỏi ăn uống kém, chỉ điểm ung thư tăng cao (CEA:7,6 ng/ml, Cyfra 21-1: 6,4 ng/ml).
Sau điều trị: không ho, không đau ngực, hết mệt mỏi, ăn uống tốt, không sờ thấy hạch thượng đòn, chỉ điểm ung thư về bình thường (CEA: 1,25 ng/ml; Cyfra 21-1:1,84 ng/ml)
Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực trước và sau điều trị 4 tháng:
Trước điều trị: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực cho thấy cho thấy khối u thùy giữa phổi phải kích thước 2,5 x 3 cm, bờ không đều
Sau điều trị 4 tháng: Đám tổn thương thùy giữa phổi phải, ít ngấm thuốc, kích thước 1,5 x 2 cm, bờ không đều, ranh giới không rõ.
Sau điều trị 4 tháng: Có vài hạch trung thất, hạch lớn nhất kích thước 1,0 x 1,6 cm
Như vậy, sau điều trị 4 tháng với Gefitinib (Iressa), Bệnh đáp ứng một phần và bệnh nhân được tiếp tục điều trị Iressa 250 mg x 1 viên/ngày.
Tác dụng phụ nổi ban ở vùng mặt, vùng lưng xuất hiện từ ngày thứ 10, tác dụng phụ ở mức độ nhẹ và bệnh nhân không phải giảm liều hoặc dừng thuốc.
Hiện tại bệnh nhân đang được điều trị Gefitinib x 1 viên/ngày.
TÓM LẠI
Lựa chọn điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa phụ thuộc vào: loại mô bệnh học, đột biến EGFR, thể trạng và kinh tế gia đình bệnh nhân…
Gefitinib (Iressa) là 1 trong các thuốc điều trị đích (nhóm phân tử nhỏ) có hiệu quả trong điều trị bước 1 ở những bệnh nhân ung thư phổi loại biểu mô tuyến có đột biến gen EGFR. Không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển và kéo dài thời gian sống thêm toàn bộ. Trong ca lâm sàng này, thuốc giúp:
+ Cải thiện các triệu chứng lâm sàng: Không còn triệu chứng ho khan, không đau tức ngực, không khó thở, hạch thượng đòn không sờ thấy
+ Chất chỉ điểm ung thư về trong giới hạn bình thường
+ Đáp ứng khách quan: Bệnh đáp ứng một phần (u và hạch thu nhỏ kích thước)
+ Kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển
Ưu điểm của thuốc: Dùng đường uống, ít độc tính, tác dụng phụ ở mức độ nhẹ, bệnh nhân có thể điều trị ngoại trú được.
Nguyễn Đức Luân