Điều trị thành công bệnh nhân ung thư phổi loại biểu mô tuyến di căn phổi tại bệnh viện Bạch Mai

Ngày đăng: 09/10/2018 Lượt xem 3076
Đại Cương:

Ung thư phổi không tế bào nhỏ đang là bệnh ung thư đứng hàng số 1 về tỉ lệ mới mắc tại Việt Nam, bệnh nhân thường vào viện khi bệnh ở giai đoạn muộn (giai đoạn III, IV). Điều trị toàn thân là hướng điều trị chủ yếu, bao gồm: hóa chất, xạ trị triệu chứng, sinh học. Lựa chọn và lập kế hoạch điều trị phụ thuộc thể trạng, giai đoạn bệnh và mô học của từng bệnh nhân.

Điều trị hóa chất phù hợp với bệnh nhân thể trạng khỏe, loại biểu mô tuyến nhưng không có đột biến gen EGFR, ung thư loại tế bào vảy… Phác đồ hóa chất có nhóm Platinum đem lại thời gian sống thêm không tiến triển và thời gian sống thêm toàn bộ cao hơn so với các phác đồ khác trong nhiều nghiên cứu đã được công bố.

Điều trị sinh học: thuốc điều trị đích ức chế enzyme tyrosin kinanse (TKIs) hoặc chất ức chế tăng sinh mạch (anti-VEGF, Bevacizumab). Nhóm thuốc ức chế tăng sinh mạch là lựa chọn bước 1 với bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giai đoạn di căn nhưng không có đột biến EGFR, không phải biểu mô vảy thì có thể điều trị hóa chất phối hợp với Bevacizumab. Tính an toàn và hiệu quả của Bevacizumab (Avastin) trong điều trị bước một cho những bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (UTPKTBN) và không có tế bào vảy chiếm phần lớn về mô học, đã được nghiên cứu kết hợp hóa trị có platin trong nghiên cứu E4599 và BO17704. Bevacizumab không chỉ được sử dụng điều trị bước 1, mà còn có thể điều trị duy trì bằng Bevacizumab đơn chất hoặc phối hợp với thuốc hóa chất.

Sau đây là ca lâm sàng một bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn IV được điều trị thành công bằng thuốc Bevacizumab (Avastin).

Bệnh cảnh:
  • Bệnh nhân: N.T.T    
  • Giới: nữ, Tuổi: 54 tuổi
  • Nghề nghiệp: Cán bộ
  • Địa chỉ: Hà Nội
  • LDVV: Ho khan, đau tức ngực.
Bệnh sử: Bệnh diễn biến trước ngày vào viện hơn 2 tháng, bệnh nhân xuất hiện ho khan, đau tức ngực trái âm ỉ, không sốt. Bệnh nhân đã được điều trị thuốc kháng sinh và thuốc chống viêm nhưng không đỡ. Bệnh nhân vào Trung tâm y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch mai để khám bệnh và điều trị.

Tiền sử:
  • Tiền sử bản thân: khỏe mạnh.
  • Không có tiền sử dị ứng
  • Không hút thuốc lá.
  • Tiền sử gia đình: chưa phát hiện gì đặc biệt.
Khám lúc vào viện:
  • Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt
  • Thể trạng trung bình, chiều cao: 160 cm, cân nặng: 60 kg
  • Không phù, không xuất huyết dưới da
  • Hạch ngoại vi không sờ thấy
  • Hô hấp: Rì rào phế nang phổi trái giảm, hội chứng 3 giảm phổi trái.
  • Tim mạch: Nhịp tim đều 80 ck/ph. Tiếng T1,T2 rõ, không có tiếng thổi bệnh lý.
  • Các cơ quan, bộ phận khác không có gì đặc biệt.
Xét nghiệm cơ bản lúc vào viện:
  • Công thức máu: trong giới hạn bình thường
  • Sinh hóa máu: chức năng gan, chức năng thận trong giới hạn bình thường.
  • Chất chỉ điểm ung thư (Tumor markers): CEA: 67,8 ng/ml, Cyfra 21-1, NSE trong giới hạn bình thường
  • Vi sinh: HbsAg (-), HCV (-)
  • Đông máu cơ bản: bình thường
Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực: Hình ảnh xẹp thùy dưới phổi trái, tràn dịch màng phổi trái, khối u vùng rốn phổi trái. Tổn thương nốt mờ rảu rác hai phổi, hạch trung thất trước khí quản kích thước 10 mm.



Chụp PET/CT đánh giá toàn thân:
  • Khối u thùy dưới phổi trái 25 x 27 mm, max SUV=11,2
  • Hạch trung thất trước khí quản 10 mm, max SUV =8,0
  • Tràn dịch màng phổi trái

Hình 2a: Hình ảnh chụp PET/CT cho thấy khối u thùy trên phổi trái kích thước 2,5 x 2,7 cm, tăng hấp thu FDG, max SUV=11,2 (vòng tròn đỏ). Tràn dịch màng phổi trái. Hạch trươc skhis quản 10 mm, max SUV: 8,0 ( mũi tên vàng)

Chụp cộng hưởng từ sọ não: không thấy hình ảnh bất thường.

Chọc dịch màng phổi trái, làm cells block: Ung thư biểu mô tuyến di căn

Nhuộm hóa mô miễn dich: Ung thư biểu mô tuyến nguồn gốc từ phổi

Phân tích đột biến gen EGFR: âm tính

Tóm lại:

  • Bệnh nhân nữ, 54 tuổi, vào viện vì ho khan, đau tức ngực.
  • Chẩn đoán xác định: Ung thư phổi trái loại biểu mô tuyến giai đoạn: T4N2M1 (di căn phổi, màng phổi), đột biến gen EGFR âm tính
Mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến biệt hóa

Kết quả xét nghiệm đột biến EGFR: không phát hiện thấy đột biến gen EGFR.

Xử trí: Hóa chất toàn thân phác đồ PC-Avastin
  • Paclitaxel 175 mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1
  • Carboplatin 300 mg/m2, truyền tĩnh mạch ngày 1
  • Bevacizumab 7,5 mg/kg, truyền tĩnh mạch ngày 1
  • Chu kỳ 21 ngày
  • Chọc tháo dịch màng phổi trái
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SAU 3 CHU KỲ TRUYỀN HÓA CHẤT.



Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực sau 6 chu kỳ hóa chất:



Xử trí tiếp theo

Điều trị duy trì Bevacizumab 15 mg/kg

Xạ trị gia tốc 66 Gy vào tổn thương u.

Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực đánh giá lại sau khi điều trị xạ trị và hóa trị. (sau 12 tháng): Các tổn thương tan biến hoàn toàn (không thấy u phổi trái, không còn dịch màng phổi trái, không thấy hạch trung thất)


Hình 4: Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính lồng ngực sau khi điều trị hóa xạ trị cho thấy các tổn thương tan biến hoàn toàn.

So sánh trước và sau điều trị

Lâm sàng:

Trước điều trị: ho khan, đau tức ngực, mệt mỏi ăn uống kém, chỉ điểm ung thư tăng cao (CEA: 67,8 ng/ml)

Sau điều trị: không ho, không đau ngực, hết mệt mỏi, ăn uống tốt, chỉ điểm ung thư giảm dần sau mỗi chu kỳ (CEA từ 67,8 ng/ml giảm xuống 24,5 sau 3 chu kỳ và giảm xuống 14,5 ng/ml sau 6 chu kỳ hóa chất.

Hình ảnh CTLN trước và sau điều trị 6 tháng, 12 tháng


Như vậy, sau điều trị 12 tháng với phác đồ hóa trị PC-Avastin, Bệnh đáp ứng hoàn toàn, các tổn thương tan biến hoàn toàn.

KẾT LUẬN

Lựa chọn điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa phụ thuộc vào: loại mô bệnh học, đột biến EGFR, thể trạng và kinh tế gia đình bệnh nhân…

Bevacizumab (Avastin) là 1 trong các thuốc điều trị đích (nhóm khánh thể đơn dòng) có hiệu quả trong điều trị bước 1 ở những bệnh nhân ung thư phổi loại biểu mô tuyến giai đoạn di căn những không có đột biến gen EGFR. Không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển và kéo dài thời gian sống thêm toàn bộ. Trong ca lâm sàng này, thuốc giúp:

+ Cải thiện các triệu chứng lâm sàng: Không còn triệu chứng ho khan, không đau tức ngực, không khó thở

+ Chất chỉ điểm ung thư giảm dần theo từng chu kỳ thuốc (từ 67,8 ng/ml giảm xuống còn 24,5 ng/ml sau 3 chu kỳ và xuống còn 14,5 ng/ml sau 6 chu kỳ).

+ Đáp ứng khách quan: Bệnh đáp ứng hoàn toàn

+ Kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển

Ưu điểm của thuốc: ít độc tính, tác dụng phụ ở mức độ nhẹ, bệnh nhân có thể điều trị ngoại trú được.

Phạm Văn Thái

Tin liên quan