Điều trị u Lympho không Hodgkin ở trung thất có xâm lấn tĩnh mạch chủ trên tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu - Bệnh viện Bạch Mai

Ngày đăng: 08/05/2020 Lượt xem 5991

 GS.TS. Mai Trọng Khoa,

TS. BS. Vũ Hữu Khiêm, BSNT. Trương Thu Hiền

Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai

 

U lympho không Hodgkin (Non Hodgkin Lymphoma) là bệnh ác tính của tổ chức lympho. Dựa vào nguồn gốc phát sinh của tế bào u, bệnh được chia thành hai nhóm chính: u lympho dòng tế bào B (khoảng 88%), u lympho dòng tế bào T và tế bào NK (khoảng 12%). Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ 2019, u lympho không Hodgkin là ung thư đứng hàng thứ 7 ở cả nam và nữ, chiếm 4-5% tổng số ca mới mắc, tỷ lệ tử vong 3-4%. Ở Việt Nam theo Globocan 2018, tỷ lệ này có thấp hơn, lần lượt là 3,1 và 1,8%.

Bệnh có sự đa dạng về biểu hiện lâm sàng, tế bào, mô bệnh học và chiến lược điều trị. Trong các dưới nhóm của u lympho không Hogkin theo WHO 2016, u lympho không Hogkin tế bào B lớn lan toả hay gặp nhất (30%). Việc xét nghiệm các dấu ấn miễn dịch trên tế bào u có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh. Có nhiều phương pháp điều trị u lympho không Hogkin như phẫu thuật, hoá trị, xạ trị, ghép tuỷ, điều trị đích… Bệnh thường đáp ứng tốt với điều trị, vì thế khoảng 50% trường bệnh có thể được chữa khỏi. Sự phát triển của các lĩnh vực sinh học, miễn dịch học cùng những ứng dụng trong y học đã và đang mở ra những hướng đi mới, hứa hẹn đem lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân. Điển hình là sự kết hợp giữa hoá trị và điều trị đích mà cụ thể là vai trò rất rõ nét của Rituximab, đã mang lại sự cải thiện vượt trội về hiệu quả điều trị bệnh.

Sau đây là ca lâm sàng bệnh nhân u lympho ác tính không Hodgkin biểu hiện tại trung thất được điều trị thành công tại Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai:

Bệnh nhân: P.N.T, nữ, 52 tuổi.

Lí do vào viện: Khó thở, phù mặt, cổ.

Bệnh sử: Khoảng tháng 10/2013, bệnh nhân thấy vùng mặt, cổ, vai phù kèm theo khó thở, các triệu chứng tăng dần. Bệnh nhân không sốt, không gầy sút cân, không ra mồ hôi trộm, không ngứa, chưa điều trị gì. Sau đó được chuyển đến Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai để điều trị.

Tiền sử:

- Bản thân: Khoẻ mạnh.

- Gia đình: Không ai mắc bệnh ác tính.

Khám lúc vào viện:

+ Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, nhiệt độ 36,5 độ C.

+ Thể trạng trung bình, cao 156cm, nặng 52kg.

+ Da bình thường, niêm mạc hồng.

+ Phù áo khoác rõ, không có tuần hoàn bàng hệ vùng ngực.

+ Hạch ngoại vi không sờ thấy.

+ Tim nhịp đều 80 chu kỳ/phút, huyết áp 120/70mmHg.

+ Khám các cơ quan khác chưa phát hiện dấu hiệu bệnh lý.

Cận lâm sàng:

+ Sinh hoá máu: Chức năng gan, thận bình thường.

+ Huyết học: bình thường.

+ Vi sinh: HbsAg (-), HIV (-).

+ Đông máu: bình thường.

+ Các xét nghiệm thăm dò khác: điện tâm đồ, chụp XQ ngực thẳng, siêu âm ổ bụng, siêu âm hạch cổ, nội soi thực quản – dạ dày, nội soi đại trực tràng không phát hiện bất thường.

+ PET/CT: Hình ảnh khối u lớn ở trung thất trước bên phải, xâm lấn màng phổi tạng, xâm lấn tĩnh mạch chủ trên, kích thước 11x7cm, maxSUV 12,5.

 1

2

 

Bệnh nhân được sinh thiết u trung thất xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính, kết quả giải phẫu bệnh: U lympho tế bào B lớn lan toả, CD20 (+).

Chẩn đoán xác định: U lympho không Hogdkin biểu hiện tại trung thất xâm lấn lan rộng, Tế bào B, CD 20 (+)

Điều trị:

Bệnh nhân được hội chẩn hội đồng chuyên môn đưa ra quyết định điều trị như sau:

+ Phẫu thuật: Đánh giá khối u lớn, xâm lấn tĩnh mạch chủ trên nguy cơ gây vỡ, chảy máu nguy hiểm đến tính mạng nếu điều trị hóa chất và xạ trị trước. Vì vậy, bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật lấy u, cắt tĩnh mạch chủ trên và thay bằng tĩnh mạch nhân tạo.

+ Sau phẫu thuật, bệnh nhân được sử dụng hoá chất phác đồ R-CHOP 8 chu kì:

  • Rituximab (Mabthera) 375mg/mda, truyền tĩnh mạch ngày 1.
  • Cylophosphamide 750mg/ mda, truyền tĩnh mạch ngày 1.
  • Doxorubicine 50mg/mda, truyền tĩnh mạch ngày 1.
  • Vincristin 1,4mg/mda, truyền tĩnh mạch ngày 1.
  • Prednisolon 60mg/mda, uống ngày 1-5.

+ Sau hoá chất 8 chu kỳ, tiến hành xạ trị bằng máy gia tốc với tổng liều 44Gy, phân liều 2Gy/ngày vào vị trí tổn thương tại trung thất.

Đánh giá sau phẫu thuật, hoá chất 8 chu kì, xạ trị 44Gy (2014):

+ Lâm sàng: ổn định, hết khó thở, vùng mặt, cổ, vai không còn phù.

+ PET/CT: Khối u trung thất không còn, không có tổ chức bất thường tăng hấp thu FDG.

3 

Đánh giá kết quả sau điều trị 6 năm (2019):

+ Lâm sàng: Bệnh nhân ổn định, thể trạng tốt, không phù cổ mặt, không khó thở

+ PET/CT: Không có tổ chức bất thường tăng hấp thu FDG.

4 

Đánh giá kết quả điều trị: sau 6 năm điều trị phối hợp đa mô thức gồm phẫu thuật, hoá trị kết hợp điều trị đích, xạ trị: bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn. Khối u vùng trung thất biến mất hoàn toàn.

Đến nay, mặc dù hơn 6 năm sau điều trị, bệnh vẫn ổn định, không có bất thường trên lâm sàng. Bệnh nhân tiếp tục được theo dõi định kì. Bệnh nhân có cuộc sống, sinh hoạt, làm việc bình thường. Chất lượng cuộc sống tốt.

 ungthubachmai.vn 

 

Tin liên quan