Cho đến nay, ung thư phổi vẫn là bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ tử vong cao.
Về mặt mô bệnh học bao gồm hai nhóm chính: ung thư tế bào nhỏ và ung thư không tế bào nhỏ (ung thư biểu mô vẩy, ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào lớn và ung thư phế quản - phế nang). Bệnh thưòng tiến triển âm thầm, triệu chứng mơ hồ, không đặc hiệu, do vậy bệnh thường phát hiện ở giai đoạn muộn, điều trị khó khăn, tiên lượng xấu.
Trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị ung thư phổi. Đặc biệt, Nhiều phương pháp điều trị mới, hiện đại đã ra đời như xạ trị điều biến liều (IMRT), X-Knife, gamma knife… ; nhiều loại thuốc và hoá chất mới để điều trị ung thư ra đời đã đem lại nhiều hy vọng hơn trong việc điều trị ung thư phổi.
Đánh giá giai đoạn dựa vào khám lâm sàng, X quang, CT Scanner, chụp cộng hưởng từ, SPECT, SPECT/CT, PET, PET/CT... đặc biệt PET/CT có thể giúp xác định tổn thương di căn và các vi di căn từ rất sớm khi chưa có biểu hiện lâm sàng hoặc các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như CT, MRI... chưa hoặc không phát hiện được.
Về điều trị:Tuỳ theo giai đoạn bệnh, thể mô bệnh học mà phương pháp điều sẽ khác nhau. Phương thức điều trị có thể đơn thuần hoặc phối hợp nhiều phương pháp.
Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ:Các phương pháp điều trị bao gồm:
* Phẫu thuật: Cắt thuỳ phổi, cắt lá phổi, cắt phân thuỳ tùy từng trường hợp cụ thể.
* Điều trị tia xạ.
+ Tia xạ đơn thuần triệt căn.
+ Tia xạ triệu chứng: Chống chèn ép trung thất, chống đau do di căn xương, tia xạ di căn não.
* Tia xạ kết hợp với phẫu thuật, hoá chất.
* Điều trị hoá chất.
* Điều trị kết hợp hoá chất với tia xạ.
Ung thư phổi tế bào nhỏ:
Các biện pháp điều trị chủ yếu là hoá chất và tia xạ.
Do đặc điểm tiến triển nhanh tới di căn xa và là loại nhạy cảm với điều trị hoá chất nên hoá trị đóng vai trò chủ đạo trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ. Phương thức điều trị phổ biến cho cả giai đoạn khu trú và lan tràn là hoá chất kết hợp với tia xạ. Hoá chất giúp giảm tỉ lệ tái phát, di căn xa và kéo dài thời gian sống thêm cho người bệnh.
Sau đây là một trường hợp ung thư phổi di căn não được điều trị hiệu quả tại Trung tâm Y học hạt nhân và điều trị ung bướu Bệnh viện Bạch Mai:
Bệnh nhân Đoàn T… 70tuổi - Nghề nghiệp: Kỹ sư hưu trí - Địa chỉ: Hai Bà Trưng – Hà Nội
Lý do vào viện: BN vào viện với ý thức lơ mơ kèm theo đau đầu, buồn nôn và yếu 1/2 người phải.
Bệnh sử: Bệnh nhân có tiền sử hút thuốc lá nhiều năm. Bệnh khởi phát đột ngột, xuất hiện từ 2 ngày nay với triệu chứng đau đầu, yếu nhẹ 1/2 người bên phải kèm theo buồn nôn, ý thức chậm chạp, đi lại khó khăn. Ngoài ra bệnh nhân không sốt, không khó thở, không co giật . Ở nhà, bệnh nhân đã được dùng thuốc giảm đau, chống nôn nhưng không đáp ứng. Diễn biến bệnh ngày một nặng thêm, ý thức lơ mơ, liệt 1/2 người phải mức độ rõ.
Lâm sàng và cận lâm sàng:
Qua thăm khám lâm sàng bệnh nhân có thể trạng trung bình, hạch ngoại vi không sờ thấy, khám thần kinh có dấu hiệu liệt 1/2 người phải không hoàn toàn và hội chứng tăng áp lực nội sọ rõ, khám tim mạch và các cơ quan khác chưa thấy có dấu hiệu tổn thương. Bệnh nhân được chụp CT sọ não cấp với hình ảnh một khối u não vùng đỉnh
Hình ảnh chụp PET/CT: Khối u thủy trên phổi phải tập chung hoạt tính phóng xạ cao
Hình 1: Ảnh chụp CT của Bn: Khối u thùy trên phổi phải
Hình 2: Hình ảnh chụp PET/CT của bệnh nhân: U thùy trên phổi phải kích thước 2x3 cm tập chung hoạt tính phóng xạ cao
Hình A: Hình ảnh chụp cộng hưởng từ của bệnh nhân trước khi điều trị tia xạ gamma quay: Khối u di căn não vùng đỉnh trái kích thước 1,7x2,3cm.
Hình B: Hình ảnh chụp cộng hưởng từ sọ não sau tia gamma quay 2 tháng kết quả khối u đã tan hết.
|
U phổi trước điều trị kích thước 2x3 | U phổi sau hóa chất và tia xạ gia tốc 2 tháng Kích thước còn 1x1,5 cm |
Mai Trọng Khoa, Trần Đình Hà, Nguyễn Xuân Thanh, Khuất Lệ Thúy