U sao bào ác tính độ IV ( Glioblast-GBM). Phần 1. Vai trò của hóa xạ trị trong điều trị bệnh u thần kinh đệm ác tính trên não ở người cao tuổi
ThS. Đoàn Xuân Trường
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai
Glioblastoma Multiforme (GBM) là bệnh ung thư não nguyên phát. Đây là thể bệnh u thần kinh đệm hình sao độ IV ( Astrocytome độ IV- theo phân độ mô bệnh học của tổ chức y tế thế giới- WHO). Tỷ lệ mắc GBM tăng theo độ tuổi, tỷ lệ cao nhất được quan sát thấy ở những người từ 75–84 tuổi. Dựa trên Tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư châu Âu, nghiên cứu ngẫu nhiên của Viện Ung thư Quốc gia Canada (NCIC) được công bố vào năm 2005 bởi Stupp và cộng sự, đã chứng minh vai trò của liệu pháp hóa xạ trị chuẩn kéo dài thời gian sống thêm của người bệnh mắc GBM. Điều trị chuẩn cho bệnh nhân GBM mới được chẩn đoán là phẫu thuật lấy tối đa u trong khả năng an toàn sau đó xạ trị 6 tuần phân liều xạ hàng ngày 1,8–2.0-Gy với tổng liều 60 Gy, 5 ngày trong một tuần, kết hợp hóa trị với temozolomide (TMZ). Tiếp theo là hóa trị liệu TMZ bổ trợ 6 tháng và có thể kéo dài đến 2 năm. Nghiên cứu của Stupp đã được công bố và đưa và hướng dẫn điều trị GBM trên người trưởng thành.
Hiệu quả của liệu pháp điều trị này được tóm tắt trong bảng số liệu dưới đây
( Nguồn trích dẫn :Stupp R, et al. (2009) Effects of radiotherapy with concomitant and adjuvant temozolomide versus radiotherapy alone on survival in glioblastoma in a randomised phase III study: 5-year analysis of the EORTC-NCIC trial. Lancet Oncol 10: 459–466.)
Chú giải: Một số thuật ngữ và khái niệm
N tổng số bệnh nhân trong quần thể phân tích ,
RT: radiation therapy= Radiotherapy: xạ trị
HRT: hypofactionated RT : xạ trị giảm liều
SRT: standard RT: xạ trị liều chuẩn
OS: overal survival: thời gian sống thêm
EFS: Event Free survival: cơ hội sống không bệnh
(+): phương pháp được áp dụng, (-): không áp dụng.
Tuy nhiên, nghiên cứu Stupp loại trừ nhóm bệnh nhân ở độ tuổi> 70. Do đó, phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân GBM cao tuổi chưa được xác định rõ ràng.
Một số câu hỏi về phương pháp điều trị GBM trên người cao tuổi được các nhà nghiên cứu, lâm sàng đặt ra: Người cao tuổi mắc GBM có đặc điểm sinh học phân tử khác biệt? Áp dụng liệu pháp hóa xạ trị chuẩn theo Stupp hay xạ trị giảm liều hay hóa trị đơn thuần hay theo dõi có lợi ích sống còn hơn với nhóm này? Ngoài ra, do các yếu tố tiên lượng kém hơn liên quan đến tuổi già và các bệnh đi kèm khác nên bệnh nhân GBM cao tuổi không được điều trị đầy đủ các liệu pháp? Các liệu pháp thay thế có thể dung nạp tốt hơn
Năm 2012 các nhà khoa học Mĩ đã công bố kết quả phân tích dữ liệu về dịch tễ, phương pháp điều trị, kết quả điều trị GBM trên 3759 người bệnh từ 65 đến 97 tuổi (SEER-MEDICARE: Surveillance, Epidemiology and End Results ). Trong công bố này, tất cả các bệnh nhân đều có kết quả mô bệnh học là GBM dựa trên phẫu thuật sinh thiết hoặc phẫu thuật loại bỏ u.
Quần thể này được chia thành 6 nhóm dựa trên liệu pháp điều trị được áp dụng.
(Nguồn tài liệu trích dẫn: A Surveillance, Epidemiology and End Results-Medicare data analysis of elderly patients with glioblastoma multiforme: Treatment patterns, outcomes and cost. Mol Clin Oncol. 2015 Sep; 3(5): 971–978. ERIC BURTON et all).
Phương pháp điều trị thay thế liệu pháp chuẩn theo Stupp trên bệnh nhân GBM cao tuổi chủ yếu bao gồm:
1. RT giảm liều (HRT): xạ trị phân liều cao trong một thời gian ngắn hơn so với RTchuẩn.
2. Hóa trị temozolomide (TMZ) đồng thời với HRT.
3. Hóa trị sử dụng TMZ đơn thuần.
4. Theo dõi sau phẫu thuật, không sử dụng các phương pháp hóa xạ trị.
Gần đây , các nghiên cứu phân tích sâu đặc điểm di truyền nhất định trong khối u, mối liên quan với hiệu quả sử dụng hóa trị.
Thống kê phân tích trên đây (SEER) đã tổng hợp, so sánh hiệu quả của các liệu pháp khác nhau trên nhóm bệnh nhân cao tuổi. Kết quả phân tích như sau:
So sánh hiệu quả kéo dài thời gian sống thêm ở 3 nhóm: Xạ trị giảm liều có hoặc không dùng TMZ với nhóm không xạ trị chỉ dùng TMZ thì thấy hiệu quả không khác biệt ở 3 nhóm với OS trung bình lần lượt tương ứng là: 3,4 và 6 tháng, khoảng thời gian OS tương ứng là (1-29 tháng), (0-33 tháng) và (1-24 tháng) với p =0.35.
So sánh OS trung bình và khoảng thời gian OS ở 2 phân nhóm: xạ trị chuẩn kết hợp hoặc không dùng TMZ với nhóm xạ trị giảm liều kết hợp hay không dùng TMZ. Kết quả phân tích cho thấy OS tương ứng là 4 và 9 tháng, khoảng OS là (0 đến 33 tháng) và (1 đến121 tháng), p<0.001. Nhưn vậy phân tích cho thấy, có vẻ liệu pháp hóa trị kết hợp vơi xạ trị giảm liều cho OS kéo dài hơn và khoảng OS cao nhất là 121 tháng.
Khi chia quàn thể ra hai nhóm tuổi (65 đến 74) và (75-97), phân tích cho thấy áp dụng xạ trị chuẩn kết hợp hóa trị hay không thì kết quả OS không khác biệt, OS tương ứng là : 9 và 7 tháng (p=0.27).
Thống kê phân tích SEER- 2012 cũng tổng kết về sự thay đổi quan điểm lựa chọn điều trị cho GBM ở người cao tuổi theo nhiều khoảng thời gian khác nhau. Trước năm 2000, số bệnh nhân áp dụng cả 3 phương pháp: phẫu thuật, xạ trị và hóa trị có tỉ lệ thấp, số bệnh nhân áp dụng HRT có tỷ lệ cao. Sau thời điểm 2005, khi thử nghiệm Stupp về hiệu quả của hóa xạ trị chuẩn được công bố, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng hóa trị TMZ kết hợp SRT tăng lên. Sau năm 2009, tỷ lệ bệnh nhân áp dụng HRT đơn thuần chỉ chiếm 5%, điều này được lí giải do bệnh nhân trong các nghiên cứu có toàn trạng tốt hơn, có thể áp dụng phối hợp các phương pháp và do kết quả của thử nghiệm Stupp nữa.
Biểu đồ minh họa sự thay đổi về lựa chọn liệu pháp điều trị GBM trên người cao tuổi theo các mốc thời gian : trước 2000, 2000-2005, 2006-2009.
Nguồn tài liệu trích dẫn: A Surveillance, Epidemiology and End Results-Medicare data analysis of elderly patients with glioblastoma multiforme: Treatment patterns, outcomes and cost. Mol Clin Oncol. 2015 Sep; 3(5): 971–978. ERIC BURTON et all).
Gần đây, nhờ sự phát triển trong lĩnh vực sinh học phân tử, phân tích các đột biến gen ung thư liên quan. Các nghiên cứu đã phân tích mối liên quan tình trạng có đột biến gen thì hóa trị hay xạ trị hay là các thuốc thế hệ mới có hiệu quả hơn? Cho đến nay, đã có một số thử nghiệm nghiên cứu về vấn đề này và đã công bố kết quả.
Phần tiếp theo chúng tôi sẽ tổng hợp những nghiên cứu cập nhật về một số đột biến gen thường gặp và vai trò của hóa trị liên quan đến đột biến gen trên bệnh GBM.
Đoàn Xuân Trường