Ung thư phổi không tế bào nhỏ đáp ứng tốt với thuốc điều trị đích tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai

Ngày đăng: 26/11/2018 Lượt xem 1191
Ung thư phổi không tế bào nhỏ đáp ứng tốt với thuốc điều trị đích tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai

PGS.TS Phạm Cẩm Phương, GS.TS Mai Trọng Khoa, Sinh viên Y5: Phạm Minh Lanh, BS Dương Hoài Thanh
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai

Bệnh cảnh:

Bệnh nhân Nguyễn T. M., nữ, 59 tuổi, vào viện ngày 21/12/2016 với lý do: ho khan, đau ngực.

Bệnh sử:

Cách ngày vào viện khoảng 3 tuần, bệnh nhân xuất hiện ho khan, hồi hộp trống ngực, kèm theo mệt mỏi và chán ăn, gầy sút cân. Bệnh nhân không khó thở, không đau tức ngực, không sốt, mọi sinh hoạt bình thường. Bệnh nhân được chụp X quang và chụp cắt lớp vi tính lồng ngực phát hiện khối u ở phổi phải. Qua tìm hiểu bệnh nhân đến Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai khám và điều trị.

Tiền sử

  • Bản thân: khỏe mạnh.
  • Gia đình: không có ai mắc bệnh lý liên quan.

Khám vào viện:

  • Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt.
  • Ho khan không có đờm, không khó thở, không sốt.
  • Thể trạng trung bình: cân nặng: 48kg;   chiều cao: 155cm  
  • Mạch: 80 lần /phút;       Huyết áp:   120/80mmHg
  • Da niêm mạc hồng.
  • Hạch thượng đòn phải có 04 hạch, chắc, di động.
  • Nhịp tim đều, tần số 80 chu kỳ/phút, không thấy tiếng bệnh lý.
  • Phổi 2 bên rì rào phế nang giảm, không có rale.
  • Bụng mềm, gan lách không sờ thấy.
  • Không liệt vận động, không rối loạn cơ tròn.
  • Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm đánh giá toàn thân trước điều trị:
  • Xét nghiệm công thức máu:
  • Hồng cầu 4.67 T/L;                              Hematocrit: 0,38L/L;                         Hemoglobin: 126G/L;
  • Tiểu cầu: 244G/L;                                Bạch cầu: 6,7G/L
  • Chức năng gan, chức năng thận bình thường.
  • Chất chỉ điểm ung thư tăng với: CEA: 67,13 ng/mL; Cyfra 21-1:   1,45 ng/mL (giá trị bình thường CEA < 4,3ng/mL; Cyfra 21-1 < 3,3ng/mL)
  • Đông máu cơ bản: bình thường.
  • Xét nghiệm vi sinh: HBsAg (-), HIV (-)
  • Xét nghiệm nước tiểu: bình thường.
  • Chụp cắt lớp vi tính ngực (2/11/2016): Hình ảnh khối thùy giữa phổi phải, nhiều nốt mờ hai phổi (tổn thương thứ phát)

 
Hình 1. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính ngực: khối thùy giữa phổi phải (vòng tròn đỏ)

Tiến hành sinh thiết và lấy gọn cả bốn hạch thượng đòn phải cho kết quả mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến di căn 4/4 hạch, phát hiện đột biến E746 – A750del trên exon 19 gen EGFR.

Bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ sọ não không phát hiện tổn thương thứ phát.

Bệnh nhân được chẩn đoán xác định: Ung thư phổi di căn phổi, giai đoạn T1N3M1 (giai đoạn IV), EGFR (+)

Bệnh nhân đã được điều trị với thuốc Erlotinib viên 150 mg ngày uống 1 viên, uống hàng ngày.

Song song với điều trị, bệnh nhân tiếp tục được chụp PET/CT đánh giá di căn các tạng khác (xương…)

Tiến hành chụp PET/CT đánh giá kết quả cho thấy:

Thùy giữa phổi phải có đám mờ kích thước 2,5 x 1,5 cm tăng hấp thu F – 18 FDG, max SUV = 3,6. Tổn thương di căn rải rác hai phổi, tổn thương đa nang tại gan.

 
Hình 2. Hình ảnh PET/CT đám mờ phổi phải (vòng tròn vàng)

 
Hình 3. Hình ảnh PET/CT các tổn thương di căn rải rác hai phổi

 

 
Hình 4. Hình ảnh PET/CT các tổn thương: nang gan (mũi tên đỏ), nang thận (mũi tên vàng)

Sau một tháng điều trị, bệnh nhân giảm ho, giảm đau tức ngực, phổi rì rào phế nang rõ.

Xét nghiệm chất chỉ điểm khối u giảm xuống còn:

CEA: 3,81ng/mL (ban đầu: 67,13 ng/mL), Cyfra 21-1: 1.01 ng/ml (ban đầu:1,45 ng/mL).

 Đánh giá sau 6 tháng điều trị:

Thăm khám lâm sàng bệnh nhân giảm ho, không đau tức ngực, không hồi hộp trống ngực, cảm giác khỏe hơn, ăn được, tăng cân.

 Xét nghiệm các chất chỉ điểm khối u giảm: CEA: 2,27 ng/mL; Cyfra 21-1: 1,97ng/mL.

 Chụp cắt lớp vi tính ngực chỉ còn hình ảnh nốt xơ dày tổ chức kẽ thùy giữa phổi phải.

 
Hình 5. Thùy giữa phổi phải chỉ còn hình ảnh nốt xơ dày tổ chức kẽ (mũi tên vàng).

Bệnh nhân nhân tiếp tục được điều trị với Erlotinib 150 mg ngày uống 1 viên, uống hàng ngày.

 Đến tháng 3 năm 2018, sau 15 tháng điều trị, bệnh nhân đã tăng được 4 kg với cân nặng hiện tại là 52kg, không còn ho khan, đau tức ngực.

Khám lâm sàng không còn sờ thấy các hạch thượng đòn phải, phổi rì rào phế nang rõ, không có ran bất thường.

-  Chụp PET/CT so sánh với kết quả chụp PET/CT ban đầu cho thấy bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị: Thùy trên phổi phải có đám mờ kích thước 1,2x1,8cm, không tăng hấp thu F-18 FDG. Nhu mô gan có nhiều nang, kích thước lớn nhất 3,2cm. Nang thận trái.

 
Hình 6. Hình ảnh PET/CT sau điều trị: đám mờ thùy trên phổi phải không tăng hấp thu F-18 FDG

 
Hình 7. Hình ảnh PET/CT sau điều trị: đa nang gan

Đám mờ phổi phải tăng hấp thu F18 – FDG, tổn thương di căn rải rác hai phổi
Nốt mờ phổi phải đã giảm kích thước, không còn tăng hấp thu F18 – FDG, hết tổn thương di căn
Hình 8. Hình ảnh PET/CT trước và sau điều trị

 Cho đến thời điểm hiện tại, sau 22 tháng điều trị, bệnh nhân vẫn biểu hiện đáp ứng tốt với Erlotinib trên cả lâm sàng và cận lâm sàng. Chúng tôi hi vọng bệnh nhân sẽ đạt ổn định bệnh lâu dài.

Phạm Cẩm Phương

Tin liên quan