Ghép tủy xương hay ghép tế bào gốc

Ngày đăng: 11/01/2012 Lượt xem 19115

 

I. Một số định nghĩa:

  • Tế bào gốc (sau đây được viết tắt là TBG): có hai đặc tính chính để phân biệt với các tế bào \"bình thuờng\": một TBG có thể sinh sản ra nhiều TBG khác, giống hệt như tế bào nguyên thủy, đến một lúc nào đó, các TBG có thể biến hóa thành những tế bào có nhiệm vụ chuyên biệt như tế bào thần kinh, tế bào co vân, tế bào máu như hồng huyết cầu ... Danh từ TBG bao gồm nhiều hình thức phát triển khác nhau : toàn năng (totipotent), đa năng (pluripotent), tiền sinh (progenitor). Hợp bào là TBG toàn năng vì có thể cho ra nhiều loại tế bào thuộc các co quan khác nhau nhu tế bào thần kinh, tế bào co vân, tế bào máu … TBG của máu (hematopoietic stem cell) là tế bào đa năng vì có thể cho ra nhiều loại tế bào máu nhu hồng huyết cầu (HHC), bạch huyết cầu, tiểu huyết cầu, đại thực bào (macrophage) …
  • CD 34: các loại tế bào của máu mang các kháng nguyên (antigens) khác nhau ở trên màng tế bào. người ta lợi dụng đặc điểm này để phân biệt các tế bào. (Như chúng ta đã thấy với các hồng huyết cầu, do sự hiện diện của các kháng nguyên A, B mà người ta định được các nhóm máu ABO). Các TBG mang một kháng nguyên đặc biệt gọi là CD 34 (2), do đó nhiều người dùng danh từ \"tế bào CD 34+ \" để chỉ các TBG. Dùng phương pháp nhuộm bằng fluorescence và một máy đếm bằng laser, người ta có thể biết được số luợng chính xác của  TBG trong một mẫu xét nghiệm. Muốn cho cuộc ghép tủy thành công, người ta phải cần một số luợng tối thiểu tế bào CD 34+. Số luợng này được tính theo trọng luợng cơ thể (trung bình phải cần 2 triệu tế bào CD 34+ cho mỗi kg cân nặng).
  • Kháng nguyên bạch huyết cầu (Human Leucocyte Antigens, viết tắt là HLA): đây là các kháng nguyên hiện diện trên màng các bạch huyết cầu, cũng như trên đại đa số các tế bào khác của cơ thể. Các kháng nguyên này được xác định do các genes ở trên nhánh ngắn (short arm) của nhiễm sắc thể số 6. Có 4 nhóm HLA chính: A, B, C, D (nhóm D còn gồm các tiểu nhóm DN, DO, DP, DQ, DR). Mỗi nhóm có hai kháng nguyên. Trong các cuộc ghép tủy, thuờng người ta chỉ xác định các nhóm HLA-A, B, DR. Một thí dụ về kết quả xác định HLA: HLA A2, A29, B27, B44, DR 14, DR 15. Các kháng nguyên bạch huyết cầu được thừa hưởng do tính di truyền theo định luật Mendel, một nửa số kháng nguyên từ cha, một nửa từ mẹ. Chúng có vai trò rất quan trọng trong việc ghép tế bào hay ghép co quan. Nếu HLA giữa người cho và người nhận tế bào / co quan khác nhau, sẽ xẩy ra tình trạng thải ghép (rejection), hay tình trạng tế bào / co quan ghép chống lại cơ thể của người nhận (graft-versus-host disease, hay GVHD).
  • Dị ghép và tự ghép: nếu lấy tế bào của một người khác ghép cho người bệnh, đó là dị ghép (allogeneic transplantation). Nếu lấy tế bào của người bệnh truyền trở lại cho họ, đó là tự ghép (autologous transplantation). Muốn bảo đảm sự thành công của dị ghép, HLA giữa người cho và người nhận phải giống nhau hoàn toàn (matched), để tránh tình trạng thải ghép hay tình trạng GVHD. người ta có thể xử dụng các thuốc chống thải ghép nhu cyclosporine, corticosteroids …, nhưng việc xử dụng các thuốc này phức tạp, và không tránh được hoàn toàn sự thải ghép. Nguồn dị ghép tốt nhất là giữa anh em có cùng nhóm HLA (3), sau đó là những người cho (donors) có HLA giống người nhận. Phương pháp tự ghép tránh được tình trạng thải ghép, và hiện giờ được xử dụng nhiều hon. TBG được thu thập trên chính người bệnh ở giai đoạn lui bệnh hoàn toàn (complete remission), và được truyền trả lại cho người bệnh sau khi dùng hóa chất trị liệu liều cao (intensive chemotherapy) kết hợp với tia phóng xạ (radiotherapy) để tiêu diệt tế bào ác tính (malignant cells).
II. Các nguồn tế bào gốc:
  • Từ tủy xương (bone marrow): đây là nguồn tế bào gốc được xử dụng đầu tiên. người ta hút tủy xương từ vùng xương chậu, số luợng tủy hút ra thuờng từ 700 ml đến 1500 ml. Do phải gây mê trong khi hút tủy, nên đôi khi xẩy ra biến chứng (có khi tử vong) vì gây mê.
  • Từ máu ngoại vi : trong máu ngoại vi (peripheral blood) có một số luợng rất ít TBG. người ta dùng các yếu tố tang truởng (growth factors) chích vào người hiến TBG trong vòng 4 đến 5 ngày để huy động các TBG từ tủy xương ra máu ngoại vi. Sau đó, với phương pháp phân ly các loại tế bào (apheresis) (4), người ta tách được các TBG. Phương pháp này ít gây chấn thương hon cách hút tủy xương, nhưng người ta vẫn còn nhiều do dự vì chưa nắm vững được các tác dụng lâu dài (long-term effects) của các yếu tố tang truởng trên cơ thể của người hiến TBG.
  • Từ máu cuống rốn (umbilical-cord blood): người ta xử dụng các TBG trong máu cuống rốn vào việc ghép tủy lần đầu tiên vào nam 1988. Các TBG này còn \"non\" (immature) nên phát triển rất mạnh, do đó nhiều khi với số luợng TBG hiện diện trong 70 đến 100 ml máu cuống rốn, người ta có thể ghép được cho người bệnh nặng từ 50 đến 70 kg. Hơn nữa, xử dụng TBG từ máu cuống rốn còn tránh được tình trạng tế bào ghép chống lại cơ thể của người nhận (GVHD). Các TBG từ máu cuống rốn được trữ lạnh trong các ngân hàng máu cuống rốn (cord bank). Vào cuối nam 2003, có hon 150 ngàn mẫu TBG từ máu cuống rốn được luu trữ trên toàn thế giới. Các mẫu TBG từ cuống rốn này đã được phân loại theo HLA và sẵn sàng được xử dụng khi có người bệnh cần được ghép.
  • Từ bào thai (embryonic stem cells): đây không phải là bào thai lấy từ tử cung của người phụ nữ mang thai. người ta lấy trứng của những phụ nữ tình nguyện và cho thụ thai với tinh trùng trong ống nghiệm. Sau đó, người ta “nuôi cấy” trứng đã thụ tinh này để thu lấy TBG. Đây cũng là nguồn TBG rất tốt vì các tế bào này còn rất non (= tế bào toàn nang). người ta có thể điều khiển được sự chuyên biệt hóa (differentiation) của các tế bào này để thu được không những các tế bào của máu, mà còn thu được tế bào của các cơ quan khác như tế bào thần kinh, tim, gan, tụy tạng (pancreas) ... Do đó, có thể ghép được các tế bào mới này thay thế các tế bào đã chết, và có hy vong chữa được các bệnh nhu Parkinson, tê liệt do chấn thương tủy sống (spinal cord injury), các bệnh suy tim (heart failure), suy gan (liver failure), hay tiểu đường (diabetes mellitus) … TBG sau khi được thu thập sẽ được trữ lạnh (cryopreserved) trong đạm khí lỏng (liquid nitrogen) với một dung dịch bảo quản. Trong tình trạng này, trên nguyên tắc người ta có thể giữ được các TBG vinh viễn (ad aeternam). Khi cần dùng TBG, người ta mang ra chờ tan lạnh và truyền vào tinh mạch nhu truyền máu vậy. Các TBG sẽ di chuyển vào tủy xương (homing), từ đó sẽ phát triển thành các tế bào của máu, và thay thế các tế bào đã bị hủy diệt truớc đó cùng lúc với các tế bào ác tính do hóa chất trị liệu liều cao hay phóng xạ trị liệu.
III. Vài hàng lịch sử của ghép tủy xương:

Cuộc ghép tủy xương trên người đầu tiên được thuật lại trên tạp chí y học diễn ra vào năm 1939. Kế tiếp là nhiều thử nghiệm ghép tủy khác, tất cả đều không thành công vì người bệnh chết sau một thời gian ngắn, nhưng người ta nhận thấy rằng tế bào trong tủy của người cho đã phát triển được trong cơ thể người nhận (engraftment). Đến nam 1965, một người bị ung thu máu cấp tính được điều trị bằng tia phóng xạ và hóa chất, sau đó được ghép tủy, đã sống thêm được 20 tháng nữa.

Các khám phá về hệ thống HLA giúp cho việc ghép tủy thu được nhiều kết quả tốt. Các phương pháp cách ly, các thuốc kháng sinh phổ rộng, thuốc chống siêu vi khuan và chống nấm, việc truyền hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu … được dùng cho bệnh nhân trong thời gian tủy xương cu bị hủy diệt và tủy xương mới chua phát triển kịp, đã cải thiện đáng kể kết quả ghép tủy xương.

IV. Chỉ định của ghép tủy xương hay ghép tế bào gốc:
  • Các rối loạn về máu, nhất là các bệnh ung thu máu : thuộc về thể cấp tính (acute) hay mạn tính (chronic), liên hệ đến dòng tủy (myelogenous lineage) hay dòng lympho (lymphocytic lineage) ; bệnh Hodgkin … Các bệnh thiếu máu Fanconi, thalassemia, thiếu máu với hồng huyết cầu hình luỡi liềm (sickle cell anemia) …
  • Một số buớu ung thu ở vú, phổi, dịch hoàn, buồng trứng, xương …
  • Một số hội chứng khiếm khuyết về miễn nhiễm (immunodeficiency syndromes), hoặc bệnh tự miễn (autoimmune disorders).
  • Một vài bệnh về biến duỡng (metabolic disorders) nhu bệnh Gaucher (một loại rối loạn về biến duỡng chất béo).
VI. Kết luận:

Ghép tủy hay ghép TBG đã trở thành một công việc điều trị được tiêu chuẩn hoá (standardized). Chỉ định của ghép TBG càng lúc càng được mở rộng. Nhiều bệnh truớc kia được coi là bất trị, bây giờ đã được chữa khỏi với phương pháp điều trị này. nhưng có vài điểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh để thay lời kết luận:
  • Việc xử dụng TBG, nhất là TBG từ bào thai cần phải được kiểm soát bằng các đạo luật và qui định rõ ràng để tránh những lạm dụng, nhất là trong lãnh vực sinh sản vô tính (cloning).
  • Muốn có được tủy hay TBG xử dụng trong các cuộc dị ghép, cần phải có người cho (donor). Rất ít người Á châu tình nguyện hiến máu hay hiến TBG . Các chủng tộc (ethnic groups) thuờng có các kháng nguyên HLA khác nhau do tính di truyền. Do đó, việc chữa trị các bệnh nhân gốc Á châu nhiều khi gặp khó khan khi phải cần đến dị ghép TBG.
  • Sự hợp tác quốc tế trong công việc điều trị này rất là cần thiết, không những trong việc lập các danh sách người hiến tủy và hiến TBG, mà còn trong việc thử (trial) các phác đồ điều trị mới, các thuốc mới .


Vào giữa thế kỷ thứ 19, các khoa học gia người Ý đã gợi ý rằng tủy xương là nguồn gốc của tế báo máu nhờ có một hóa chất nào đó trong tủy. Tới đầu thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là một số tế bào ở tủy tạo ra tế bào máu. Họ gọi các tế bào này là “tế bào gốc”-stem cells. Kết quả nhiều nghiên cứu kế tiếp đã xác định dữ kiện này.

Tế bào gốc có trong tủy xương và máu. Tủy là lớp mô bào xốp nằm giữa các khoảng trống của xương. Ở trẻ sơ sinh, tất cả xương đều có tủy hoạt động mạnh. Tới tuổi tráng niên, tủy ở xương tay chân ngưng hoạt động trong khi đó tủy ở các xương sọ, hông, sườn, ức, cột sống vẫn tiếp tục sản xuất tế bào gốc.

Vì máu và tủy đều chứa nhiều tế bào gốc cho nên có nhiều đề nghị các chữ “ghép tế bào gốc -stem cells transplantation” để thay thế cho “ghép tủy xương-bone marrow transplantation”.

Đặc tính của các tế bào gốc là có thể tự sinh ra tế bào khác y hệt như mình và tạo ra các tế bào trưởng thành như hồng cầu, bạch huyết cầu, tiểu cầu.

Ngoài tủy xương, tế bào gốc còn có trong dòng máu lưu thông hoặc máu từ cuống rốn thai nhi, nhau thai.. Ở tủy xương, cứ khoảng 100,000 tế bào máu thì có một tế bào gốc, trong khi đó số lượng tế bào gốc ở máu chỉ bằng 1/100 ở tủy.

Khái niệm ghép tủy để trị bệnh được khảo sát một cách khoa học vào cuối thế chiến II khi có nhiều nạn nhân bị hoại tủy do tiếp cận với phóng xạ, đặc biệt là sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật.

Kỹ thuật ghép tủy xương được thực hiện thành công vào năm 1968 để điều trị các bệnh ung thư bạch cầu, thiếu máu vô sinh (aplastic anemia), u ác tính các hạch bạch huyết như bệnh Hodgkin, rối loạn miễn dịch và vài loại u như ung thư noãn sào, vú.

Trong ghép tủy, các tế bào bệnh hoạn của tủy bị tiêu diệt và tế bào gốc lành mạnh được truyền vào máu, tập trung vào ổ xương và bắt đầu sinh ra tế bào máu bình thường cũng như thiết lập một hệ miễn dịch mới.

Ghép tế bào gốc cứu sống nhiều người và chỉ thực hiện được khi có người cho thích hợp. Điều này không dễ dàng, vì để phương thức thành công, tế bào đôi bên phải hầu như 100% tương xứng. Chỉ dưới 30% bệnh nhân cần ghép tế bào mầm có thể tìm được tương xứng ở thân nhân.

Nếu người nhận và người cho là sanh đôi đồng nhất (identical twins), do một trứng được thụ tinh rồi phân chia tạo ra hai thai nhi, thì mọi sự êm đẹp, không có phản ứng khước từ (reject).

Ngược lại khi người cho và người nhận không là sinh đôi đồng nhất thì cần phải tìm một người cho có loại tế bào gần tương tự như tế bào người nhận. Đây là việc làm khá khó khăn, tốn nhiều thời gian để có đối tác tương ứng.

Nhu cầu của bệnh nhân cần được ghép tế bào gốc rất cao mà kiếm được hai loại tế bào tương xứng giữa người cho và người nhận rất khó khăn. Vì thế nhiều tổ chức bất vụ lợi quốc tế đã đứng ra để ghi danh những vị tình nguyện hiến tủy hoặc tế bào mầm trong máu. Mỗi vị ghi danh là một niềm hy vọng cho những bệnh nhân khao khát chờ đợi được cứu sống. Hiện nay danh sách có khoảng hơn 10 triệu người trên thế giới sẵn sàng dâng hiến.

Hiến tủy được thực hiện tại cơ sở y tế với đầy đủ phương tiện, sau nhiều sửa soạn chu đáo cho nên rất an toàn. Mọi người từ 18 tới 60 tuổi, có sức khỏe tốt và hội đủ một số tiêu chuẩn y tế đều có thể ghi danh.

Khi áp dụng phương pháp hóa trị trước ghép, thay vì bị diệt tủy bằng hóa chất liều cao, cô sinh viên này được giảm liều để gây phản ứng ghép chống chủ (tế bào được ghép chống lại cơ thể). \"Trước kia, hiện tượng này làm người ta sợ hãi, nhưng giờ đã có bằng chứng cho thấy đi cùng với nó là quá trình các tế bào ghép tiêu diệt tế bào ung thư. Nhờ đó, khả năng khỏi bệnh tăng lên \" - thạc sĩ Khánh giải thích.

Một cái lợi nữa của việc giảm liều hóa chất là bệnh nhân không phải nằm trong phòng vô trùng tuyệt đối mấy tháng trời do không bị diệt tủy, nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu giảm tối đa. Các tác dụng phụ của hóa trị liệu cũng được hạn chế.

Để lấy tế bào gốc máu, các bác sĩ không chọc tủy của người hiến, mà gạn từ máu lấy ở cánh tay. Nếu lấy tủy, bác sĩ sẽ phải gây mê cho người hiến, và chọc vài chục lần mới đủ lượng cần thiết, gây đau đớn, mệt mỏi nhiều.

Tiến sĩ Nguyễn Anh Trí, Viện trưởng Viện Huyết học và Truyền máu, cho biết trong thời gian tới, ghép tế bào gốc sẽ trở thành kỹ thuật thường quy tại viện nhằm điều trị các dạng ung thư máu, căn bệnh ngày càng tăng ở Việt Nam.

Nếu như các loại ung thư khác có thể chữa bằng phẫu thuật thì với bệnh này, điều đó là không thể bởi tế bào bệnh theo máu đi khắp cơ thể. Nếu không ghép tủy, bệnh nhân chỉ có thể điều trị bằng hóa chất.

\"Đây là con dao hai lưỡi mà lưỡi nào cũng sắc\" - thạc sĩ Bạch Quốc Khánh nói. Hóa chất liều càng cao càng giúp tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng cũng khiến bệnh nhân mệt mỏi, kiệt quệ, nhiều người thậm chí còn tử vong trong quá trình điều trị.

 

 

 

 

 

Ghép Tủy xương hay ghép tế bào gốc:

Người dịch: Dược sĩ Mai Lan (Theo ACS)
Tế bào gốc là các tế bào trong tủy xương (phần xốp,chất dịch ở phần trung tâm xương) liên tục tạo ra các tế bào máu cho cơ thể. Ghép tế bào gốc được sử dụng để thay thế tủy xương khi tủy xương đã bị huỷ do các trị liệu như hóa trị, xạ trị, hoặc do căn bệnh. Tế bào gốc có thể được lấy từ tủy xương hoặc máu. Tế bào gốc có thể được ghép từ của chính bệnh nhân ( tự ghép), hoặc có thể từ một người nào khác (dị ghép).
Ghép tủy xương (BMTs) là phương pháp đầu tiên để thay thế các tế bào gốc , nhưng hiện nay ít sử dụng thường xuyên . Người hiến tủy thường được gây mê trước khi tiến hành lấy tủy xương để đưa vào sử dụng trong một ca ghép tủy.
Với việc hiến các tế bào gốc từ máu ngoại vi, các tế bào gốc được lấy từ máu tuần hoàn . Điều này cho phép người hiến vẫn tỉnh táo trong khi lấy các tế bào gốc . Trước khi hiến, người cho phải dùng một loại thuốc đặc biệt để làm các tế bào gốc phát triển và đi vào vòng tuần hoàn máu. Đây là phương pháp ghép tế bào gốc (SCT), là phương pháp thông thường được sử dụng nhiều nhất ngày nay.
Bác sĩ hoặc các điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân ung thư sẽ cho bệnh nhân biết thêm chi tiết về điều trị hoặc các ca lâm sàng sử dụng phương pháp ghép tế bào gốc.
Nếu bênh nhân đã được ghép tủy hay ghép tế bào gốc:

Dấu hiệu cần lưu ý:

  • Da bị phát ban, đặc biệt là trên lòng bàn tay hay bàn chân
  • Chán ăn, sụt cân
  • Thở hổn hển hoặc ho
  • Mệt mỏi
  • Đau
  • Khó chịu ở dạ dày
  • Buồn nôn hoặc ói mửa
  • Vết loét miệng hoặc khô miệng
  • Tiêu chảy
  • Vàng da hay vàng mắt
  • Chóng mặt, xanh xao, hoặc các dấu hiệu của chỉ số hemoglobin thấp (xem chỉ số huyết học)
  • Sốt, ớn lạnh hoặc các dấu hiệu của nhiễm trùng (xem bài chỉ số huyết học, chỉ số bạch cầu thấp)
  • Máu trong phân hoặc nước tiểu, chảy máu từ bất cứ nơi nào (xem phần bài chỉ số huyết học, chỉ số tiểu cầu thấp)


Những gì bệnh nhân nên làm

  • Đến gặp Bs đúng theo lịch hẹn.
  • Đặt câu hỏi. Nhóm chăm sóc bệnh nhân ung thư sẽ giúp đỡ bn.
  • Hỏi về phản ứng phụ và cách xử lý khi gặp phải.
  • Dùng thuốc theo đúng như Bs kê toa.
  • Hỏi về những dấu hiệu nào cần thông báo cho bác sĩ
  • Nếu bn bị các triệu chứng khác, vd như buồn nôn hoặc ói mửa, xin xem lại bài đó, và gọi bác sĩ.

Những gì người chăm sóc có thể làm

  • Đi với bệnh nhân đến cuộc hẹn với Bs và hỏi nhóm chăm sóc bệnh nhân ung thư nếu có bất kỳ thắc mắc.
  • Giúp theo dõi phản ứng phụ và các triệu chứng của bịnh nhân, xem lại những bài đó trong tập sách này.


Gọi cho bác sĩ nếu bệnh nhân:

  • Có một trong những vấn đề nêu trên, hay các triệu chứng làm bạn lo ngại
  • Thắc mắc về phương pháp ghép tủy hay ghép tế bào gốc.

Theo Nhipcauykhoa

Tin liên quan