Lịch Sử Sàng Lọc Ung Thư Vú
Khái niệm sàng lọc, tìm ra những ung thư vú ở giai đoạn sớm còn khu trú
được đề xướng từ giữa thế kỉ XVIII bởi Hênh Frangois le Dran,
ông đã cho rằng UTV ban đầu phát triển tại chỗ, sau đó lan tràn
theo đường bạch huyết để đi vào tuần hoàn chung. Donegan,
quan điểm rằng nếu tiến hành phẫu thuật sớm sẽ đem lại khả năng chữa khỏi bệnh UTV.
Tuy nhiên, mãi tới đầu thế kỉ XX, Salomon và cộng sự mới có
những thử nghiệm với tia X-quang và phát hiện ra những UTV
còn tiềm ẩn, từ đó xác nhận vai trò của X-quang có
thể phát hiện ra tổn thương của ung thư trước khi phát hiện
trên lâm sàng. Phát hiện quan trọng này đánh dấu sự khởi đầu
cho việc phát hiện bệnh trong cộng đồng và thúc đẩy việc sàng
lọc UTV.
Giá trị của sàng lọc UTV đã được khẳng định bởi nhiều thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Các nhà y học Hoa Kỳ đã đưa làm thử nghiệm
phát hiện sớm UTV bằng sàng lọc cho hơn 280.000 phụ nữ tại 29 trung tâm từ năm 1973-1980. Kết quả cho thấy tỉ lệ số người tham gia luôn cao và có gần một nửa số trường
hợp UTV đã được phát hiện bằng chụp vú đơn thuần. Một điều bất
ngờ là các giai đoạn bệnh được chẩn đoán sớm hơn nhiều so với các
trường hợp mắc ung thư vú ghi nhận được trong chương trình
nghiên cứu dịch tễ học cùng thời gian này. Thời gian sống thêm
toàn bộ ở nhóm được sàng lọc cũng cao hơn nhiều so với nhóm
không sàng lọc.
Đối với các nước phát triển, chụp vú để sàng lọc phát hiện
UTV đã được thừa nhận giá trị và thực hiện rộng rãi trong
cộng đồng.
ở nước ta, việc chụp vú đã được tiến hành cho chẩn đoán và gần
đây chúng ta cũng bước đầu thực hiện chương trình thí điểm sàng
lọc nhằm phát hiện UTV. Bước đầu thu được kết quả rất đáng
khích lệ.
Cơ sở của sàng loc ung thư vú
ở nước ta, tỉ lệ mắc UTV trên cả 3 miền đều cao. Tại Hà Nội,
theo thống kê của ghi nhận ung thư Hà nội 1999 tỉ lệ mắc chuẩn
theo tuổi là 21,8/100.000 dân, tại Thành phố Hồ Chí Minh là
17,1/100.000 dân. Số bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn
còn nhiều nên hiệu quả điều trị còn thấp, phải dùng đến
những can thiệp nặng nề trong điều trị. Do vậy, chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân chứa cao. Từ đó thấy rằng UTV là
một gánh nặng bệnh tật cho xã hội.
Giá trị của sàng lọc còn đưa lại hiệu
quả tốt do can thiệp sớm vì UTV có một thời gian tiềm ẩn gọi là
giai đoạn tiền lâm sàng.
Độ dài của thời gian này ước tính là . khoảng thời gian mà một
khối u tiềm ẩn có thể phát hiện trước khi biểu hiện triệu chứng
lâm sàng.
Đối với UTV, thời gian tiềm ẩn trung bình theo một số nghiên
cứu cũng có sự thay đổi theo tuổi, theo độ mô bệnh học, thể của mô
bệnh học. Tác giả Tabar và cộng sự ước lượng thời gian tiềm ẩn
trung bình là 1,7 năm đối với phụ nữ tuổi 40\"49; 3,3 năm với tuổi
từ 50-59; và 3,8 năm đối với phụ nữ tuổi từ 60-69.
Hiểu biết về thời gian tiềm ẩn đóng một vai trò quan trọng trong
việc quyết định khoảng thời gian sàng lọc cho một chương trình .
sàng lọc UTV.
Xác định thời gian tiềm ẩn để quyết định khoảng cách thời gian
cho việc sàng lọc ở những độ tuổi khác nhau.
Giai đoạn bệnh ở thời điểm chẩn đoán đóng một vai trò quan
trọng trong tiên lượng. Khi một UTV được phát hiện ở giai đoạn
khu trú trong tuyến vú, tỉ lệ sống sau 5 năm cao hơn một cách rõ
rệt so với khi bệnh đã phát triển tại vùng hoặc đã di căn xa.
Một nghiên cứu về kết quả điều trị theo giai đoạn cho thấy tỷ lệ
sống sau 5 năm là 97,4% khi bệnh còn ở giai đoạn tại chỗ, 77,4% khi bệnh ở
giai đoạn tại vùng di căn hạch và 21,2% khi đã có di căn xa.
Để đánh giá giá trị của sàng lọc ung thư nói chung cũng như
sàng lọc UTV nói riêng cần quan tâm đến độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị dự báo dương tính của các test sử dụng trong sàng lọc.
Độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính
Kết quả cuối cùng của sàng lọc là đi đến kết luận bình thường
hoặc không bình thường.
Một kết quả bình thường có thể là âm tính giả hay âm tính
thật. Một kết quả dương tính có thể là dương tính giả hay dương
tính thật.
Các test sàng lọc UTV chia nhóm được sàng lọc thành 2 loại có
khả năng có bệnh và không có khả năng có bệnh.
Các thông số đánh giá dựa vào tình trạng bệnh nhân sau 1 năm
khi được thực hiện các test sàng lọc được định nghĩa như sau :
Dương tính thật (DTT): ung thư được chẩn đoán trong vòng 1
năm sau khi sinh thiết dựa trên kết quả bất thường khi chụp vú.
âm tính thật (ATT): không có ung thư nào được chẩn đoán trong
vòng 1 năm dựa trên kết quả bình thường khi chụp vú.
âm tính giả (ATG): khi ung thư vú được chẩn đoán trong vòng 1
năm dựa trên kết quả bình thường.
Dương tính giả (DTG): không có ung thư nào được chẩn đoán
trong vòng một năm dựa trên kết quả bất thường.
Độ nhạy : dùng để đo lường khả năng phát hiện dò tìm UTV khi
bệnh đã hiện diện, là tỉ lệ những người được phát hiện ung thư
trong một năm sàng lọc những người có biểu hiện bất thường tại
thời điểm sàng lọc.
Độ nhạy = DTT / (DTT + ATG)
Độ đặc hiệu: là khả năng nhận biết chính xác một người bệnh là
bình thường khi không có ung thư, là tỉ lệ những người không tìm
thấy ung thư trong vòng một năm sàng lọc những người bình
thường tại thời điểm sàng lọc.
Độ đặc hiệu =ATT / (ATT+ DTG)
Giá trị dự báo dương tính (GTDBDT) của 1 test sàng lọc là tỉ lệ
các ca ung thư trong số các ca có kết quả sàng lọc dương tính
GTDBDT = DTT / (DTT + DTG)
Đánh giá độ nhạy từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy độ nhạy
thay đổi tùy theo nhóm tuổi sàng lọc. ở những phụ nữ lớn hơn
hoặc bằng 50 tuổi, độ nhạy cao hơn so với nhóm tuổi từ 40 đến 49
tuổi, tỉ lệ tương ứng là 73%-88% so với 53%-81%. Độ đặc hiệu cũng
là một thông số quan trọng đo lường hiệu lực của một chương
trình sàng lọc, thậm chí một khác biệt nhỏ trong độ đặc hiệu cũng \"
có ý nghĩa thay đổi lớn về hiệu lực và giá thành của một chương
trình sàng lọc.
Sàng lọc ung thư vú trong điều kiện việt nam
Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, điều kiện kinh tế, xã hội còn
nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, các cơ sở khám chữa
bệnh ung thư còn ít, thiết bị X quang chụp vú còn rất ít, chúng ta
khó có thể triển khai một chương trình sàng lọc bằng chụp tuyến
vú cho tất cả phụ nữ trên 40 tuổi trong cộng đồng. Việc sàng lọc
UTV chỉ có thế thực hiện ở mức độ làm giảm bớt bệnh nhân UTV
khi đến bệnh viện đã ở giai đoạn muộn. Những cơ sở có điều kiện
có thể tổ chức sàng lọc UTV theo khuyến cáo dưới đây:
Bảng 2.1 : Sàng lọc UTV theo nhóm có nguy cơ cao
Nhóm tuổi | Phương pháp sàng lọc |
18-39 | Không khuyến cáo |
40-49 | - Tự khám vú 1 tháng/ 1 lần (vào lúc sau khi sạch kinh 5 ngày) |
Trên 50 | -Tự khám vú 1 tháng/ 1 lần - Chụp vú 1-2 năm / lần đối với người có nguy cơ cao - Khám thầy thuốc chuyên khoa khi nghi ngờ có u ở vú hoặc khám tinh kì 1 năm 1 lần |
Tuy chúng ta chưa có những thử nghiệm lâm sàng về sàng lọc
ngẫu nhiên UTV, nhưng tuổi của sàng lọc cũng nên bắt đầu từ
tuổi 40 vì vai trò của sàng lọc ở lứa tuổi này đã được chứng minh
bởi các thử nghiệm lâm sàng của các nước.
Để sàng lọc có hiệu quả cần quan tâm đến các yếu tố nguy cơ hơn
là lưu tâm đến tuổi.
Tổ chức sàng lọc theo nguy cơ sẽ loại bỏ nhóm nguy cơ thấp khỏi
việc sàng lọc.
Những phụ nữ có nguy cơ cao bao gồm : phụ nữ trên 40 tuổi, tiền
sử gia đình có người có một liên quan huyết thống bậc 1 bị ung thư,
có mẹ hoặc chị em gái bị UTV, những phụ nữ đã được chẩn đoán
điều trị UTV trước đó, có cơ địa bệnh béo phì ... cần được cân nhắc để
quyết định cho việc khám, chụp vú sàng lọc UTV.