Sàng lọc ung thư vú

Ngày đăng: 13/01/2009 Lượt xem 5223

Lch S Sàng Lc Ung Thư Vú

Khái niệm sàng lọc, tìm ra những ung thư vú ở giai đoạn sớm còn khu trú

được đề xướng từ giữa thế kỉ XVIII bởi Hênh Frangois le Dran,

ông đã cho rằng UTV ban đầu phát triển tại chỗ, sau đó lan tràn

theo đường bạch huyết để đi vào tuần hoàn chung. Donegan,

quan điểm rằng nếu tiến hành phẫu thuật sớm sẽ đem lại khả năng chữa khỏi bệnh UTV.

Tuy nhiên, mãi tới đầu thế kỉ XX, Salomon và cộng sự mới có

những thử nghiệm với tia X-quang và phát hiện ra những UTV

còn tiềm ẩn, từ đó xác nhận vai trò của X-quang có

thể phát hiện ra tổn thương của ung thư trước khi phát hiện

trên lâm sàng. Phát hiện quan trọng này đánh dấu sự khởi đầu

cho việc phát hiện bệnh trong cộng đồng và thúc đẩy việc sàng

lọc UTV.

Giá trị của sàng lọc UTV đã được khẳng định bởi nhiều thử

nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Các nhà y học Hoa Kỳ đã đưa làm thử nghiệm

 phát hiện sớm UTV bằng sàng lọc cho hơn 280.000 phụ nữ tại 29 trung tâm từ năm 1973-1980. Kết quả cho thấy tỉ lệ số người tham gia luôn cao và có gần một nửa số trường

hợp UTV đã được phát hiện bằng chụp vú đơn thuần. Một điều bất

ngờ là các giai đoạn bệnh được chẩn đoán sớm hơn nhiều so với các

trường hợp mắc ung thư vú ghi nhận được trong chương trình

nghiên cứu dịch tễ học cùng thời gian này. Thời gian sống thêm

toàn bộ ở nhóm được sàng lọc cũng cao hơn nhiều so với nhóm

không sàng lọc.

Đối với các nước phát triển, chụp vú để sàng lọc phát hiện

UTV đã được thừa nhận giá trị và thực hiện rộng rãi trong

cộng đồng.

ở nước ta, việc chụp vú đã được tiến hành cho chẩn đoán và gần

đây chúng ta cũng bước đầu thực hiện chương trình thí điểm sàng

lọc nhằm phát hiện UTV. Bước đầu thu được kết quả rất đáng

khích lệ.

 

Cơ sở của sàng loc ung thư vú

 

ở nước ta, tỉ lệ mắc UTV trên cả 3 miền đều cao. Tại Hà Nội,

theo thống kê của ghi nhận ung thư Hà nội 1999 tỉ lệ mắc chuẩn

theo tuổi là 21,8/100.000 dân, tại Thành phố Hồ Chí Minh là

17,1/100.000 dân. Số bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn

còn nhiều nên hiệu quả  điều trị còn thấp, phải dùng đến

những can thiệp nặng nề trong điều trị. Do vậy, chất

lượng cuộc sống của bệnh nhân chứa cao. Từ đó thấy rằng UTV là

một gánh nặng bệnh tật cho xã hội.

Giá trị của sàng lọc còn đưa lại hiệu

quả tốt do can thiệp sớm vì UTV có một thời gian tiềm ẩn gọi là

giai đoạn tiền lâm sàng.

Độ dài của thời gian này ước tính là . khoảng thời gian mà một

khối u tiềm ẩn có thể phát hiện trước khi biểu hiện triệu chứng

lâm sàng.

Đối với UTV, thời gian tiềm ẩn trung bình theo một số nghiên

cứu cũng có sự thay đổi theo tuổi, theo độ mô bệnh học, thể của mô

bệnh học. Tác giả Tabar và cộng sự ước lượng thời gian tiềm ẩn

trung bình là 1,7 năm đối với phụ nữ tuổi 40\"49; 3,3 năm với tuổi

từ 50-59; và 3,8 năm đối với phụ nữ tuổi từ 60-69.

Hiểu biết về thời gian tiềm ẩn đóng một vai trò quan trọng trong

việc quyết định khoảng thời gian sàng lọc cho một chương trình .

sàng lọc UTV.

Xác định thời gian tiềm ẩn để quyết định khoảng cách thời gian

cho việc sàng lọc ở những độ tuổi khác nhau.

Giai đoạn bệnh ở thời điểm chẩn đoán đóng một vai trò quan

trọng trong tiên lượng. Khi một UTV được phát hiện ở giai đoạn

khu trú trong tuyến vú, tỉ lệ sống sau 5 năm cao hơn một cách rõ

rệt so với khi bệnh đã phát triển tại vùng hoặc đã di căn xa.

Một nghiên cứu về kết quả điều trị theo giai đoạn cho thấy tỷ lệ

sống sau 5 năm là 97,4% khi bệnh còn ở giai đoạn tại chỗ, 77,4% khi bệnh ở

giai đoạn tại vùng di căn hạch và 21,2% khi đã có di căn xa.

Để đánh giá giá trị của sàng lọc ung thư nói chung cũng như

sàng lọc UTV nói riêng cần quan tâm đến độ nhạy, độ đặc hiệu,

giá trị dự báo dương tính của các test sử dụng trong sàng lọc.

 

Độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính

 

Kết quả cuối cùng của sàng lọc là đi đến kết luận bình thường

hoặc không bình thường.

Một kết quả bình thường có thể là âm tính giả hay âm tính

thật. Một kết quả dương tính có thể là dương tính giả hay dương

tính thật.

Các test sàng lọc UTV chia nhóm được sàng lọc thành 2 loại có

khả năng có bệnh và không có khả năng có bệnh.

Các thông số đánh giá dựa vào tình trạng bệnh nhân sau 1 năm

khi được thực hiện các test sàng lọc được định nghĩa như sau :

Dương tính thật (DTT): ung thư được chẩn đoán trong vòng 1

năm sau khi sinh thiết dựa trên kết quả bất thường khi chụp vú.

âm tính thật (ATT): không có ung thư nào được chẩn đoán trong

vòng 1 năm dựa trên kết quả bình thường khi chụp vú.

âm tính giả (ATG): khi ung thư vú được chẩn đoán trong vòng 1

năm dựa trên kết quả bình thường.

Dương tính giả (DTG): không có ung thư nào được chẩn đoán

trong vòng một năm dựa trên kết quả bất thường.

Độ nhạy : dùng để đo lường khả năng phát hiện dò tìm UTV khi

bệnh đã hiện diện, là tỉ lệ những người được phát hiện ung thư

trong một năm sàng lọc những người có biểu hiện bất thường tại

thời điểm sàng lọc.

Độ nhạy =  DTT / (DTT + ATG)

Độ đặc hiệu: là khả năng nhận biết chính xác một người bệnh là

bình thường khi không có ung thư, là tỉ lệ những người không tìm

thấy ung thư trong vòng một năm sàng lọc những người bình

thường tại thời điểm sàng lọc.

Độ đặc hiệu =ATT / (ATT+ DTG)

Giá trị dự báo dương tính (GTDBDT) của 1 test sàng lọc là tỉ lệ

các ca ung thư trong số các ca có kết quả sàng lọc dương tính

GTDBDT = DTT / (DTT + DTG)

Đánh giá độ nhạy từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy độ nhạy

thay đổi tùy theo nhóm tuổi sàng lọc. ở những phụ nữ lớn hơn

hoặc bằng 50 tuổi, độ nhạy cao hơn so với nhóm tuổi từ 40 đến 49

tuổi, tỉ lệ tương ứng là 73%-88% so với 53%-81%. Độ đặc hiệu cũng

là một thông số quan trọng đo lường hiệu lực của một chương

trình sàng lọc, thậm chí một khác biệt nhỏ trong độ đặc hiệu cũng \"

có ý nghĩa thay đổi lớn về hiệu lực và giá thành của một chương

trình sàng lọc.

 

Sàng lọc ung thư vú trong điều kiện việt nam

Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, điều kiện kinh tế, xã hội còn

nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, các cơ sở khám chữa

bệnh ung thư còn ít, thiết bị X quang chụp vú còn rất ít, chúng ta

khó có thể triển khai một chương trình sàng lọc bằng chụp tuyến

vú cho tất cả phụ nữ trên 40 tuổi trong cộng đồng. Việc sàng lọc

UTV chỉ có thế thực hiện ở mức độ làm giảm bớt bệnh nhân UTV

khi đến bệnh viện đã ở giai đoạn muộn. Những cơ sở có điều kiện

có thể tổ chức sàng lọc UTV theo khuyến cáo dưới đây:

 

Bảng 2.1 : Sàng lọc UTV theo nhóm có nguy cơ cao

Nhóm tuổi
Phương pháp sàng lọc
18-39

Không khuyến cáo

40-49

- Tự khám vú 1 tháng/ 1 lần (vào lúc sau khi sạch kinh 5  ngày)

Trên 50

-Tự khám vú 1 tháng/ 1 lần

- Chụp vú 1-2 năm / lần đối với người có nguy cơ cao

- Khám thầy thuốc chuyên khoa khi nghi ngờ có u ở vú hoặc khám tinh kì 1 năm 1 lần

 

Tuy chúng ta chưa có những thử nghiệm lâm sàng về sàng lọc

ngẫu nhiên UTV, nhưng tuổi của sàng lọc cũng nên bắt đầu từ

tuổi 40 vì vai trò của sàng lọc ở lứa tuổi này đã được chứng minh

bởi các thử nghiệm lâm sàng của các nước.

Để sàng lọc có hiệu quả cần quan tâm đến các yếu tố nguy cơ hơn

là lưu tâm đến tuổi.

Tổ chức sàng lọc theo nguy cơ sẽ loại bỏ nhóm nguy cơ thấp khỏi

việc sàng lọc.

Những phụ nữ có nguy cơ cao bao gồm : phụ nữ trên 40 tuổi, tiền

sử gia đình có người có một liên quan huyết thống bậc 1 bị ung thư,

có mẹ hoặc chị em gái bị UTV, những phụ nữ đã được chẩn đoán

điều trị UTV trước đó, có cơ địa bệnh béo phì ... cần được cân nhắc để

quyết định cho việc khám, chụp vú sàng lọc UTV.

Tin liên quan