Nghiên cứu đề xuất xạ phẫu thuật trở thành tiêu chuẩn điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh di căn não trên 4 ổ.
31/10/ 2020, Hannah Slater
Sưu tầm: BS. Nguyễn Thế Thu
Khi so sánh với liệu pháp xạ trị toàn não, các nhà nghiên cứu phát hiện ra liệu pháp tia xạ tập trung cao (xạ phẫu) thì tác dụng phụ (suy giảm nhận thức) ít hơn đồng thời mang lại tỷ lệ sống thêm toàn bộ tương đương.
Kết quả từ một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng, giai đoạn 3 được trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội xạ trị Ung thư Hoa Kỳ (American Society for Radiation Oncology-ASTRO) cho thấy rằng xạ phẫu (stereotactic radiosurgery -SRS) nên thay thế xạ trị toàn não (whole brain radiation therapy-WBRT) để điều trị cho bệnh nhân di căn não từ 4 ổ trở lên.
Khi so sánh với liệu pháp xạ trị toàn não, các nhà nghiên cứu phát hiện ra liệu pháp bức xạ tập trung cao ( xạ phẫu) việc suy giảm nhận thức ít hơn đồng thời mang lại tỷ lệ sống sót tổng thể tương đương.
“Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng mạnh mẽ để hỗ trợ việc thay thế xạ toàn não bằng xạ phẫu cho những bệnh nhân có nhiều di căn não”, tác giả chính Jing Li, MD, PhD, một giáo sư về xạ trị ung thư và đồng giám đốc của Phòng khám Di căn não tại The University of Texas MD Anderson Cancer Center in Houston
“Tia
xạ toàn bộ não là xương sống của việc điều trị di căn não trong một
thời gian rất dài,” Li nói thêm. “Tuy nhiên, khi phương pháp xạ phẫu trở nên phổ biến, chúng tôi thấy tiềm năng của nó trong việc giảm suy giảm nhận thức liên quan đến điều trị tia xạ toàn não và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân."
Các nhà điều tra đã phân loại bệnh nhân trưởng thành có 4-15 tổn thương di căn não (không phải ung thư hắc tố) chưa được điều trị theo mô học, số lượng tổn thương, điểm cơ bản Hopkins Verbal Learning Test - Revised Total Recall (HVLT-R TR), bệnh ngoài sọ, Thang đo thể trạng
Karnofsky (KPS) và tuổi , sau đó chỉ định ngẫu nhiên họ để nhận SRS
hoặc WBRT. Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 9 năm 2019, tổng số 72 bệnh
nhân được phân ngẫu nhiên thành SRS (n = 36) hoặc WBRT (n = 36) với thời
gian theo dõi trung bình ước tính là 6,6 tháng (khoảng 0,2-69,8).
Điểm nghiên cứu chính của nghiên cứu là HVLT-R TR và kiểm soát tại chỗ (LC) sau 4 tháng. Các điểm nghiên cứu phụ bao gồm các bài kiểm tra chức năng nhận thức thần kinh bổ sung, sống thêm toàn bộ (OS), tổn thương não mới, độc tính và thời gian đến khi điều trị toàn thân.
Đáng chú ý, thử nghiệm đã kết thúc sớm do tích lũy chậm.
Số ổ di căn não trung bình lúc nhập viện là 8 và 31 bệnh nhân được đánh giá cho HVLT-R TR sau 4 tháng.
Sau khi công bố RTOG 0614, các nhà nghiên cứu khuyến khích dùng memantine trong nhóm WBRT; 62% bệnh nhân trong nhóm WBRT được dùng memantine.
So với ban đầu, mục tiêu nghiên cứu chính, z score chuẩn
hóa HVLT-R TR trong 4 tháng tăng 0,21 (sai số chuẩn [SE], 0,27) đối với
bệnh nhân được điều trị bằng SRS và giảm 0,74 (SE, 0,36) đối với những
bệnh nhân được xử lý bằng WBRT (P = .041). Dựa trên Tổng hợp pin thử
nghiệm lâm sàng (điểm z trung bình cho HVLT-R, COWA, TMT), sau 4 tháng,
chức năng nhận thức thần kinh của bệnh nhân ở nhánh SRS cũng được cải
thiện trung bình 0,23 (SE, 0,14) và chức năng nhận thức thần kinh của
bệnh nhân trong nhóm WBRT giảm trung bình 0,73 (SE, 0,35; P = 0,008).
Thời gian OS trung bình là 10,4 tháng trong nhóm SRS và 8,4 tháng trong
nhóm WBRT (P = 0,45).
Li
giải thích: “Suy giảm nhận thức là một trong những tác động gây suy
nhược nhất của việc điều trị và di căn não, và mục tiêu chính của việc
điều trị là cải thiện chức năng hoạt động của não cho những bệnh nhân
mắc các khối u này”.
Hơn nữa, các phân tích sơ bộ về kiểm soát u tại chỗ tại thời điểm 4 tháng cho thấy tỷ lệ kiểm soát tại chỗ 100% đối với SRS và 95,5% đối với WBRT (P = .53) và thời gian trung bình xuất hiện tổn thương mới tại não là 4,3 tháng đối với SRS so với 18,1 tháng đối với WBRT (P = .09). Tuy nhiên, kết quả kiểm soát tại chỗ và xuất hiện tổn thương mới tại não hiện đang được xác nhận độc lập bởi bác sĩ X quang thử nghiệm.
Điều quan trọng, khi so sánh WBRTvới xạ phẫu có liên quan đến thời gian gián đoạn điều trị toàn thân ngắn hơn (thời gian để
điều trị toàn thân: SRS 1,7 tuần, WBRT 4,1 tuần, P = 0,001). Theo Li,
phát hiện này đặc biệt quan trọng đối với những bệnh nhân mắc bệnh di
căn, vì họ được hưởng lợi từ liệu pháp toàn thân để kiểm soát ung thư
bên ngoài não.
Về độ an toàn, 4 bệnh nhân điều trị WBRT (15%) và 2 bệnh nhân nhận SRS (8%) xuất hiện độc tính cấp 3 trở lên. Bằng chứng hình ảnh về hoại tử do bức xạ,
một tác dụng phụ liên quan đến SRS, cũng được quan sát thấy ở 17% bệnh
nhân trên nhánh SRS của thử nghiệm (4% của tất cả các tổn thương được
điều trị).
Trong tương lai, các nhà nghiên cứu
dự định so sánh SRS với một dạng WBRT mới hơn được thiết kế đặc biệt để
tránh hồi hải mã. Trong khi thử nghiệm NRG Oncology CC 001 được công bố
gần đây cho thấy lợi thế của việc tránh hồi hải mã so với phương pháp
điều trị toàn bộ não tiêu chuẩn, cho đến nay chưa có thử nghiệm nào so
sánh nó với SRS.
Li cho biết: “Cả hai lựa chọn hiện được coi là phương pháp điều trị tiêu chuẩn và cả hai lựa chọn đều có ưu và nhược điểm.
Nguồn:
https://www.cancernetwork.com/view/study-suggests-stereotactic-radiosurgery-become-standard-of-care-for-patients-with-4-brain-metastases