Osimertinib vượt trội hơn so với gefitinib, erlotinib trong điều trị bước đầu UTPKTBN giai đoạn tiến xa
ThS. Bùi Tiến Công (sưu tầm và dịch)
Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai
Thế hệ thứ 3- Chất ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (ức chế tyrosin kinase)(EGFR-TKI) osimertinib cho thời gian sống bệnh không tiến triển (PFS) tốt hơn so với điều trị tiêu chuẩn (EGFR-TKI) trong điều trị bước đầu ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa có đột biến EGFR (NSCLC), với độ an toàn tương tự và tỷ lệ biến cố bất lợi nghiêm trọng thấp hơn, như được báo cáo trong thử nghiệm lâm sàng FLAURA pha III.
Kết quả phân tích bao gồm 556 bệnh nhân trước đó chưa được điều trị, Ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển tại chỗ hoặc di căn có đột biến EGFR (exon 19 hoặc L858R) cho thấy trung vị thời gian sống bệnh không tiến triển (được đánh giá bởi các nhà nghiên cứu viên) dài hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm điều trị bằng osimertinib (80 mg mỗi ngày một lần) ; n = 279) so với nhóm dùng EGFR-TKI chuẩn (gefitinib ở liều 250 mg hoặc erlotinib ở 150 mg mỗi ngày một lần; n = 277; 18,9 so với 10,2 tháng). [New Engl J Med 2017; doi: 10.1056 / NEJMoa1713137]
Đặc biệt, điều tị bằng osimertinib làm giảm nguy cơ bệnh tiến triển hoặc tử vong hơn 50% so với nhóm điều trị chuẩn (tỷ số nguy cơ HR 0,46; 95% CI, 0,37–0,57; p <0,001).
Không có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ đáp ứng khách quan giữa hai nhóm điều trị: 80% với osimertinib so với 76% với EGFR-TKIs tiêu chuẩn (tỷ lệ chênh, 1,27; 0,85-1,90; p = 0,24). Tuy nhiên, thời gian đáp ứng dài hơn ở nhóm điều trị osimertinib (trung vị, 17,2 tháng; 13,8–22,0 so với 8,5 tháng; 7,3–9,8).
Kết quả đánh giá tạm thời vẫn chưa đủ dài để đánh giá sống còn toàn bộ. Tại thời điểm 18 tháng, tỷ lệ sống còn toàn bộ là 83% với osimertinib và 71% với EGFR-TKIs tiêu chuẩn (tỷ số nguy cơ tử vong, 0,63; 0,45 đến 0,88; p = 0,007 [không đặc hiệu trong kết quả đánh giá tạm thời])
Các tác dụng phụ nghiêm trọng, như là kéo dài khoảng QT và bệnh viêm phổi kẽ, đã được báo cáo ở 22% bệnh nhân trong nhóm osimertinib và 25% trong nhóm EGFR-TKI tiêu chuẩn
“Mặc dù không có so sánh thống kê về dữ liệu an toàn, hồ sơ an toàn của osimertinib tương tự như EGFR-TKIs tiêu chuẩn, nhưng có tỷ lệ tác dụng bất lợi thấp hơn từ độ 3 trở lên [34 so với 45%], mặc dù thời gian trung vị tiếp xúc với osimertinib dài hơn”.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất ở cả hai nhóm (liên quan đến điều trị hay không) là phát ban hoặc mụn trứng cá, tiêu chảy và da khô
Kết quả thử nghiệm lâm sàng FLAURA cho thấy osimertinib vượt trội hơn so với EGFR-TKIs tiêu chuẩn hiện nay trong điều trị bước đầu, thêm vào đó dân số thử nghiệm có đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng phù hợp với dân số toàn cầu trên những bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn tiến xa có đột biến EGFR
Tuy nhiên, thử nghiệm không phải là không có hạn chế. Trong số các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng việc loại bỏ afatinib khỏi nhóm so sánh và hình ảnh cộng hưởng từ của não không bắt buộc đối với tất cả bệnh nhân, hạn chế khả năng phát hiện di căn não không triệu chứng.
Nguồn:
https://specialty.mims.com/topic/osimertinib-superior-to-gefitinib--erlotinib-in-first-line-treatment-of-advanced-nsclc?country=vietnam
https://www.nejm.org/doi/10.1056/NEJMoa1713137
Bùi Tiến Công