Liệu pháp tế bào T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm: Thách thức khi chỉ định rộng hơn
CN. Võ Thị Thúy Quỳnh (tổng hợp và dịch)
ĐV Gen – Tế bào gốc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai
Liệu pháp tế bào lympho T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm là
phương pháp tiềm năng của liệu pháp miễn dịch đặc hiệu, được xem như là
bước đột phá trong điều trị cho bệnh nhân mắc ung thư ác tính.
Tổng quan về liệu pháp tế bào lympho T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm
Liệu
pháp miễn dịch tế bào T sử dụng các tế bào T được tách xuất từ máu
ngoại vi của bệnh nhân, sau đó biến đổi gen trong phòng thí nghiệm để
mang những thụ thể kháng nguyên đặc hiệu khối u, hay các thụ thể kháng
nguyên dạng khảm (CARs – Chimeric Antigen Receptors) trên bề mặt. Trong
đó, dạng khảm là dạng được lai từ ít nhất 2 cá thể khác nhau. Các tế bào
T này được truyền ngược lại cho bệnh nhân và tương tác chính xác với
kháng nguyên trên bế bào ung thư của người bệnh và tiêu diệt tế bào ung
thư một cách đặc hiệu.
Hình 1: Quá trình sản xuất và sử dụng tế bào CAR-T trong điều trị ung thư (Nguồn: Norvartis)
Thách thức khi chỉ định rộng liệu pháp tế bào T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm
Tuy
mang lại hy vọng trong điều trị căn bệnh ung thư ác tính, liệu pháp tế
bào T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm vẫn còn nhiều nhược điểm cần
khắc phục. Đầu tiên là giá thành cho một đợt chữa trị vẫn còn quá cao.
Năm 2017, Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA – the US Food
and Drug Administration) phê duyệt hai loại thuốc là Tisagenlecleucel -
CTL019 (Kymriah; Novartis) và Axicabtagene ciloleucel (Yescarta; Kite
Pharma) được sử dụng trong liệu pháp miễn dịch tế bào T mang thụ thể
kháng nguyên dạng khảm thế hệ thứ nhất. Cụ thể, chi phí điều trị cho
bệnh nhân bằng thuốc tisagenlecleucel là $475 000 và với thuốc
axicabtagene ciloleucel là $373 000; tuy nhiên, đây mới chỉ là chi phí
dành riêng cho các sản phẩm thuốc và không tính đến các chi phí liên
quan đến trị liệu bạch cầu, điều trị bạch huyết, và các tác dụng phụ của
liệu pháp miễn dịch tế bào CAR-T. Một phần dẫn đến giá thành cao này là
việc sản xuất tế bào CAR-T vẫn còn trong giai đoạn đầu nghiên cứu và
phải được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân, không sản xuất hay áp dụng
hàng loạt như những phương pháp khác; quá trình sản xuất vẫn còn chậm.
Hiện
tại, các tế bào T mang thụ thể kháng nguyên dạng khảm chủ yếu nhắm vào
CD19 – một kháng nguyên bề mặt đặc hiệu cho lympho B. Phương pháp cho
thấy hiệu quả tiềm năng của thử nghiệm điều trị cho bệnh nhân mắc các
bệnh ung thư bạch cầu và u lympho như: ung thư bạch cầu lympho B cấp
tính tái phát, ung thư bạch cầu mãn tính, u lympho không Hodgkin với tỉ
lệ thuyên giảm bệnh từ 70 đến 94% trong các thử nghiệm khác nhau. Mặc dù
vậy, số lượng này còn quá nhỏ so với số lượng bệnh nhân mắc ung thư có
khối u rắn (solid tumors). Sử dụng liệu pháp tế bào T để điều trị các
khối u rắn gặp khó khăn khi xác định các kháng nguyên bề mặt, vì các
kháng nguyên đích trên bề mặt khối u rắn cũng biểu hiện trên các mô bình
thường. Ngoài ra, liệu pháp tế bào T mang thụ thể kháng nguyên dạng
khảm đi kèm theo hội chứng giải phóng cytokine (cytokine-release
syndrome) và nhiều triệu chứng khác được ghi nhận như sốt, hạ huyết áp,
mê sảng, co giật, phù phổi, …; quá nhiều cytokine và không điều trị các
tác dụng phụ kịp thời có thể gây tử vong cho bệnh nhân.
Một
số bệnh nhân mắc ung thư bệnh cầu điều trị bằng liệu pháp tế bào T mang
thụ thể kháng nguyên dạng khảm bị tái phát do mất kháng nguyên, hay tế
bào ung thư bạch cầu của họ không còn biểu hiện CD19. Như vậy liệu pháp
ban đầu là nhắm mục tiêu kép để đối phó với tổn thất kháng nguyên. Các
tế bào T nhắm vào CD19 và CD22 hay CD19 và CD123 đang được phát triển có
thể ngăn ngừa sự mất kháng nguyên.
Tóm
lại, liệu pháp tế bào T là một tiến bộ lớn trong điều trị các khối u ác
tính cũng như các loại khối u không thể chữa trị khác. Chi phí điều trị
cao cùng với việc sử dụng tế bào T liên quan đến các tác dụng phụ
nghiêm trọng và thậm chí đe dọa đến tính mạng là thách thức với liệu
pháp mới này. Hiện nay liệu pháp đang sử dụng trong các thử nghiệm lâm
sàng. Hy vọng trong tương lai, liệu pháp tế bào T mang thụ thể kháng
nguyên dạng khảm sẽ được chỉ định rộng trong điều trị cho những bệnh
nhân mắc ung thư giai đoạn muộn.
Bài viết được lược dịch từ bài “CAR T-Cell Therapies: Broader Indications, Bigger Problems?” của Leonard B. Saltz, MD được đăng trên Medscape Oncology ngày 29 tháng 6 năm 2018.
Tài liệu tham khảo
- Hernandez I, Prasad V, Gellad WF. Total costs of chimeric antigen receptor T-cell immunotherapy. JAMA Oncol. 2018 Apr 26
- D'Aloia MM, Zizzari IG, Sacchetti B, Pierelli L, Alimandi M. CAR-T cells: the long and winding road to solid tumors. Cell Death Dis. 2018; 9:282
- Ruella
M, Barrett DM, Kenderian SS, et al. Dual CD19 and CD123 targeting
prevents antigen-loss relapses after CD19-directed immunotherapies. J Clin Invest. 2016; 126:3814-3826
- Sameh
Gabalia, et al. “Cancer Immunotherapy with Chimeric Antigen Receptor
(CAR) T-Cells”. Medscape. Medscape Oncology, 4 May 2018 <https://emedicine.medscape.com/article/2500108-overview#a1>;
Nguồn: ungthubachmai.com.vn